[Suy Tư Cùng ĐGH] – Lòng Nhân Ái Như Mẫu Số Chung Của Các Truyền Thống Tôn Giáo Ở Việt Nam

Sống trong một thế giới đầy biến động, nơi mà khác biệt tôn giáo, văn hoá và niềm tin có thể vừa là nguồn phong phú tinh thần, nhưng vừa có thể là nguyên nhân của chia rẽ. Trước thực tại ấy, một câu hỏi lớn được đặt ra là: Phải chăng có một “ngôn ngữ chung” giúp các tôn giáo có thể gặp gỡ và cộng tác với nhau vì lợi ích con người? Câu trả lời có thể được đặt ra là “lòng nhân ái”. Thật vậy, chỉ có lòng nhân ái, tình thương yêu con người vô điều kiện, là mẫu số chung, là hệ quy chiếu, là chiếc cầu nối giữa các truyền thống tôn giáo khác nhau, đặc biệt trong bối cảnh đa tôn giáo của Việt Nam.

Việt Nam là quốc gia, nơi có một không gian giao thoa tôn giáo và tinh thần bao dung từ lâu đời. Thật vậy, Việt Nam là mảnh đất nơi nhiều tôn giáo như Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Công giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo, các tôn giáo bản địa, v.v., cùng tồn tại trong hòa bình.  Trong dòng chảy lịch sử, dù có những khác biệt trong giáo lý và nghi lễ, các tôn giáo ở Việt Nam vẫn chia sẻ một nền đạo lý chung: yêu thương con người, hướng thiện, và sống nhân ái. Chính học giả Trần Văn Giàu từng viết: “Đạo đức truyền thống Việt Nam có cốt lõi là lòng nhân ái – thương người như thể thương thân”[i]. Dường như, tinh thần ấy thấm đẫm vào mọi tôn giáo du nhập và bản địa hóa, trở thành chất keo liên kết giữa các niềm tin khác nhau, làm nên bản chất và nét đặc sắc của con người Việt Nam. Có rất nhiều tôn giáo ở Việt Nam, nhưng vì phạm vi bài viết có giới hạn, nên chỉ dừng lại phân tích ở Tam Giáo đó là: Nho Giáo, Phật Giáo và Công Giáo.

Có thể nói, cốt yếu về lòng nhân ái trong Nho giáo là lấy ‘Nhân Nghĩa như cội rễ của đạo làm người’. Trong Nho giáo, nhân (仁) là trung tâm của toàn bộ hệ thống luân lý. Khổng Tử nói: “Nhân giả, ái nhân” – người có nhân là người biết yêu người (Luận Ngữ, XII, 22). Nhân không chỉ là tình thương của cá nhân hay chỉ dành cho một cá nhân nào đó, mà là nền tảng cho trật tự xã hội: từ tình cha con, vua tôi, bằng hữu đến lòng trung hậu, khoan dung. Học giả Tu Weiming – một đại diện của Nho học hiện đại – nhận định rằng: “Nhân là biểu hiện của tính người phổ quát, là sự đồng cảm với người khác trong ý thức về cộng đồng nhân loại”[ii]. Tại Việt Nam, tư tưởng “Nhân” được dân gian hóa thành triết lý sống giản dị: “Thương người như thể thương thân”, “Lá lành đùm lá rách”. Thực ra ở đây, nhân ái không chỉ là đức tính đạo đức, mà là bản sắc dân tộc, là nền tảng cho tinh thần cộng đồng – điều đã giúp xã hội Việt Nam duy trì sự gắn kết qua nhiều thế kỷ.

Kế đến, xét về lòng nhân ái trong Phật Giáo, thiết tưởng cần quan tâm đến hạn ngữ “Từ Bi”. Thật vậy, lòng từ bi trong Phật giáo được xem như suối nguồn của sự giác ngộ. Nếu Nho giáo đặt “nhân” làm cội, thì Phật giáo lấy “từ bi” làm tâm. Bởi lẽ, “Từ” là đem niềm vui, bình an cho mọi người, còn “bi” là cứu khổ, cứu nạn cho đời. Do đó, Đức Phật dạy: “Không có con đường dẫn đến từ bi – chính từ bi là con đường” (Dhammapada, câu 224).Theo Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, lòng từ bi không chỉ là cảm xúc thương xót, mà là “hiểu biết sâu sắc về nỗi khổ của người khác, để hành động giải khổ một cách thông minh và hiệu quả”[iii]. Trong lịch sử Việt Nam, Phật giáo không chỉ truyền dạy lý thuyết, mà còn thể hiện nhân ái qua hành động: lập chùa làm nơi cứu tế, dạy dân trồng trọt, mở lớp học chữ, giúp dân thoát nạn đói và chiến tranh. Vào thời Triều Trần, với tinh thần “Cư trần lạc đạo”, vua Trần Nhân Tông đã dung hợp giữa đạo và đời, cho thấy từ bi không tách rời trách nhiệm xã hội. Ngày nay, tinh thần ấy tiếp tục sống trong hoạt động từ thiện, y tế, giáo dục và môi trường của các tổ chức Phật giáo Việt Nam. Như vậy, lòng từ bi không chỉ là lý tưởng tâm linh mà là năng lượng, là lý tưởng, là khuôn mẫu cho một hình thái xã hội tích cực.

Còn đối với Đạo Công Giáo, lòng bác ái chính là tình yêu phổ quát, là một sợi dây hiệp nhất lẫn nhau trong Chúa. Thật vậy, trong Công giáo, nền tảng đạo đức là agape – tình yêu thương vô điều kiện, hướng về Thiên Chúa và tha nhân. Chúa Giêsu dạy: “Ngươi hãy yêu người thân cận như chính mình” (Mt, 22,39). Theo Thông điệp Deus Caritas Est (Thiên Chúa là Tình Yêu, 2005) của Đức Bênêđictô XVI: “Bác ái là con tim của đời sống Kitô hữu; mọi hoạt động tôn giáo chỉ thực sự có ý nghĩa nếu phát xuất từ tình yêu.” 

Ở Việt Nam, Giáo hội Công giáo từ lâu đã gắn bó với đời sống xã hội thông qua hệ thống trường học, bệnh viện, trung tâm bảo trợ xã hội… Nhiều linh mục, tu sĩ, giáo dân tham gia hoạt động xã hội, chăm sóc người nghèo, bệnh nhân, trẻ mồ côi… – đó là biểu hiện cụ thể của tinh thần “đức tin hoạt động qua đức ái” (Gl 5,6). Còn nhớ thời đại dịch Covid-19, trong khoảng thời gian giãn cách xã hội, nhiều người bệnh lâm vào cảnh thập tử nhất sinh trong bệnh viện, đã có không ít các linh mục, tu sĩ và giáo dân lắng nghe tiếng Chúa gọi mời qua các vị mục tử, họ đã can đảm, quảng đại và dấn thân không chút sợ hãi vào các tuyến đầu chống dịch. Các giáo dân, tu sĩ, linh mục đã can trường dấn thân vào nơi “biên cương của đại dịch”, dù biết rằng môi trường đó dễ dàng lây nhiễm bệnh và có thể mắc Covid và nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng vì Lời Chúa dạy “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,9-17) và “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu” (Ga 15,13), họ đã ra đi và giúp đỡ nhiều anh chị em đang trong cảnh lầm than, khốn cùng đó. Tất cả cũng chỉ vì lòng bác ái, lòng mến Chúa yêu người mà thôi! Như vậy, tình yêu thương trong Kitô giáo không chỉ hướng về Thiên Chúa, mà còn hướng về từng con người, bất kể đối tượng được thương yêu kia có cùng đức tin hay không. Đây là nền tảng đối thoại liên tôn rất mạnh mẽ, vì nó khẳng định rằng: mọi người đều là con cái của cùng một Cha chung – Thiên Chúa Tình Yêu.

Tóm lại, mặc dù khác biệt về niềm tin, nhưng tất cả các tôn giáo, cụ thể là tam giáo kể trên đều quy hướng về tình thương, về mối quan tâm đến con người. Đó chính là “mẫu số chung”, là ngôn ngữ tinh thần phổ quát mà các tôn giáo có thể đối thoại liên tôn, cùng nhau hành động. Thần học gia Hans Küng, người khởi xướng “Dự án đạo đức toàn cầu” (Global Ethic Project) – từng khẳng định: “Không thể có hòa bình giữa các dân tộc nếu không có hòa bình giữa các tôn giáo; và không thể có hòa bình giữa các tôn giáo nếu không có đối thoại giữa các tôn giáo.”[iv]

Hy vọng trong tương lai, khởi đi từ ngôn ngữ chung là “Lòng Nhân Ái”, các tôn giáo có thể tổ chức các chương trình liên tôn, để không chỉ dừng lại ở các hội thảo thần học mang tính học thuật, mà còn cùng nhau hành động thiện nguyện, từ thiện, để xây dựng công ích chung. Chẳng hạn như: môi trường giáo dục lành mạnh, bảo vệ môi trường, chăm sóc ngôi nhà chung, bảo vệ người yếu thế, cô đơn… trong các trung tâm bảo trợ xã hội. Đây là hành động đạo đức nhằm giúp thăng tiến giá trị nhân văn, công bình và hòa bình xã hội.

Minh Đức, S.J.

[i] Trần Văn Giàu, Giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam, NXB KHXH, 1980

[ii] Tu Weiming, Confucian Humanism, 1996.

[iii] Nẻo về của ý, Thích Nhất Hạnh, 1990

[iv] Hans Küng, Global Responsibility: In Search of a New World Ethic, 1991

Nguồn: dongten.net

Bài Liên Quan

Lời Kinh Mân Côi: Vũ Khí Thiêng Liêng Của...

Đối với người Công giáo, Tháng 10 – Tháng Mân Côi không chỉ là một truyền thống...

[Suy Tư Cùng ĐGH] Niềm Tin Khác Nhau –...

Chiến tranh, nghèo đói, thiên tai, dịch bệnh… đều không phân biệt tôn giáo. Bài viết mở...

Người Nữ – Món Quà Của Sự Sống Và...

Ngày 20 tháng 10, ngày tôn vinh người nữ Việt Nam là dịp để ta tạm dừng...

Vâng Phục Là Trường Học Tự Do Trong Tình...

Ba lời khuyên Phúc Âm vâng phục, khó nghèo và khiết tịnh được xem là ba điều trọng...

Loan Báo Tin Mừng Hôm Nay

WHĐ (18/10/2025) - Bài viết trình bày những giáo huấn căn bản của Giáo hội về việc...

Kinh Mân Côi – Chuỗi Ngọc Tin Yêu Và...

Trong mọi khoảnh khắc của đời người – khi bình minh vừa lên hay khi hoàng hôn...