Khuynh hướng tìm bảo đảm an toàn là một nhu cầu tâm lý cơ bản của con người. Nhiều người trẻ ngày nay cố gắng học cao, tìm việc làm ổn định với hy vọng nhờ đó họ sẽ an tâm và tin tưởng có một cuộc sống bảo đảm. Cũng tương tự, đối với những người sống đời thánh hiến, việc tìm kiếm những gì cần thiết cho một đời tu bền vững, hạnh phúc, triển nở và nhất là một đời tu thật sự ý nghĩa là điều quan trọng. Nội dung bài viết sẽ tìm hiểu về những “bảo đảm” của đời sống thánh hiến ngày nay dưới hai khía cạnh: những bảo đảm giả tạo và những yếu tố thiết yếu của đời tu dưới ánh sáng Lời Chúa và quan điểm của Giáo Hội.
Theo Kinh Thánh, lịch sử cứu độ cho thấy dân Chúa luôn có một cảm thức tự hào về địa vị ưu tuyển của họ đối với các dân khác. Vì hãnh diện là dân Chúa chọn, họ tin tưởng cách mù quáng vào một số thể chế tôn giáo như một bảo đảm họ sẽ luôn được Chúa che chở. Họ cậy dựa vào những đặc ân riêng Thiên Chúa ban, xem đó như là những bảo đảm đáng tin cậy và tự hào, có giá trị trước Chúa và mọi người. Trong Tân ước, thánh Phaolô đã cảnh báo các Kitô hữu về những bảo đảm giả tạo mà họ tin tưởng và ngài hướng họ xây dựng đời sống Kitô hữu dựa trên những bảo đảm thực sự là niềm tin, niềm hy vọng và nhất là Tình yêu (x. 1Cr 13). Tất nhiên, Thánh Phaolô không phải là người đầu tiên đưa ra những cảnh báo này, vì trong thời Cựu ước, ngôn sứ Giêrêmia và các ngôn sứ đã từng cảnh tỉnh dân Chúa về những thứ mà họ tin tưởng như việc cắt bì, việc tế lễ, hòm bia và đền thờ Giêrusalem. Tất cả chỉ là bảo đảm giả tạo, chúng sẽ vô nghĩa và sụp đổ nếu dân không vâng giữ luật Chúa, vì Thiên Chúa muốn tình yêu hơn những thứ đó. Những bảo đảm giả tạo mà các tác giả sách thánh đã cảnh báo dân Chúa không chỉ là câu chuyện của quá khứ nhưng chúng thực sự có giá trị cho những người thánh hiến hôm nay suy tư về những bảo đảm giả tạo mà họ có thể đang cậy dựa.
Những bảo đảm giả tạo của đời tu hôm nay
Thời đại ngày nay rất đề cao vai trò và vị trí của tri thức, phương tiện vật chất và các mối tương quan. Có thể nói, chúng như chiếc kiềng ba chân đưa con người đến thành công và bảo đảm một cuộc sống sung mãn. Ba yếu tố này cũng tác động khá mạnh trên đời tu, trên quan niệm sống cũng như chọn lựa của những người thánh hiến hôm nay.
- Tri thức
Việc đào tạo tri thức cho người thánh hiến ngày nay đa dạng và đòi hỏi hơn xưa rất nhiều. Các ứng sinh ngày càng trải qua giai đoạn đào tạo kéo dài hơn. Nếu theo giáo luật năm 1983, tuổi vào nhà tập chỉ quy định là mười bảy tuổi trọn (GL, 643) nhưng ngày nay chắc chắn không hội dòng nào có các tập sinh ở độ tuổi này. Vì các giai đoạn trước đó ứng sinh cần nhiều thời gian học tập các chuyên ngành đạo cũng như đời, và ngay cả sau khi khấn trọn các tu sĩ vẫn phải tiếp tục học tập và tự huấn luyện suốt đời. Họ không chỉ học tập ở trường lớp mà còn qua các phương tiện và môi trường khác nhau để làm phong phú vốn tri thức của mình nhằm phục vụ sứ mệnh. Bởi vì “thời đại mới và yêu cầu tông đồ trong tương lai yêu cầu người tu sĩ một trình độ tương xứng nào đó ngõ hầu có thể trả lời cho những thách đố của thời đại.”
Không ai phủ nhận rằng việc đào tạo tri thức cho người thánh hiến ngày nay quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, duy sự hiểu biết có phải là bảo đảm trường tồn cho một đời tu đích thực? Trong khi có những người xem nó như tấm “thẻ bảo hiểm” đến độ dành toàn tâm toàn lực vào việc trau dồi tri thức như việc quan trọng nhất trong đời. Thực ra, tri thức nhìn từ phía đời tu, nó không phải là mục đích nhưng chỉ là phương tiện để phục vụ sứ mệnh tông đồ và chỉ được xếp sau các chiều kích đào tạo nhân bản và đời sống thiêng liêng. Nếu tri thức không thực sự làm cho người tu sĩ thêm yêu mến và sống thân mật hơn với Chúa, thì tri thức đó chỉ là giả tạo, và có nguy cơ đưa người ta đến kiêu ngạo và tìm lợi cho bản thân, như sách Huấn Ca nói: “Có kẻ khôn, nhưng chỉ để tìm lợi cho mình, vì hiểu biết của nó chỉ mang lại lợi ích cho bản thân” (Hc 37,22).
Khuynh hướng cậy dựa vào tri thức như mục đích đời người lại là cơn cám dỗ của mọi thời. Nền văn chương khôn ngoan Cựu ước thường xuyên giáo huấn người trẻ đừng cậy dựa vào sự khôn ngoan của mình nhưng “Hãy hết lòng tin tưởng vào Đức Chúa, chớ hề cậy dựa vào hiểu biết của con” (Cn 3,5). Tương tự vào thời thánh Phaolô, trong môi trường ảnh hưởng tinh thần triết lý Hy lạp coi trọng tri thức, các Kitô hữu tại Côrintô rất ưa chuộng sự khôn ngoan, ước ao và tự hào được những ơn nói tiếng lạ, nói tiên tri, được “biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu” và để trình bày giáo lý của Đức Kitô. Thánh Phaolô đã chỉ ra tính cách vô thường của những ơn đó, nếu chúng không được thực thi vì ích chung và nhất là vì tình yêu (x.1Cr 12,7-8; 13,3). Bởi lẽ khôn ngoan và hiểu biết không phải là những đức tính cố định thường hằng mà là chỉ những ơn nhất thời Thần Khí ban cho (x. 1Cr 13,8-9) nên ngài đã nói đến nguy cơ “Sự hiểu biết thì sinh lòng kiêu ngạo, còn lòng bác ái thì xây dựng” (1Cr 8,1). Quả thực, tình yêu xây dựng mối tương quan hiệp thông với Thiên Chúa và mối dây liên kết với anh chị em. Trong khi tri thức có khuynh hướng khiến người ta tự kiêu, coi thường hoặc không cảm thông với người họ cho là hiểu biết thấp kém.
Có một nhận định đáng lưu tâm về đời tu ngày nay rằng thành phần tu sĩ trẻ có kiến thức thường gặp khủng hoảng với các vị hữu trách thiếu cởi mở và trình độ thấp. Họ xem ra khó chấp nhận một người thua kém mình về mọi phương diện lại nắm giữ vai trò lãnh đạo và thích dùng quyền để áp đặt. Nguyên nhân cuộc khủng hoảng này khá phức tạp từ nhiều phía, bài viết không nhằm đào sâu ở đây. Nhưng nhìn từ phía những tu sĩ trẻ, cuộc khủng hoảng sẽ bớt khó khăn hơn nếu họ ý thức “chính Đức Chúa ban tặng khôn ngoan; tri thức và hiểu biết là nhờ Người mà có” (Cn 2,6) và tri thức họ có được là để tôn vinh Thiên Chúa về những việc Người làm (x. Hc 38,6). Ý thức như vậy, người ta sẽ không tự hào về vốn tri thức của mình nhưng biết “sử dụng các nhận định và hiểu biết của mình sao cho đúng đắn” (Hc 39,7), biết cảm thông, nhẫn nại hòa hợp những khác biệt về hiểu biết với anh chị em và khiêm tốn, thận trọng trong những phán đoán. Hơn nữa, theo thánh Phaolô, ngay cả người có kiến thức cũng chưa chắc hiểu rõ mọi sự và làm điều nên làm (x.1Cr 8,1-2). Tri thức của lý trí mới chỉ là tri thức một phần, cần có tri thức của tình yêu mới là tri thức trọn vẹn vì khi yêu thương thực sự, tình yêu sẽ chỉ cho người ta biết phải làm gì. Trong đời tu, người có tình yêu thực sự sẽ nhạy bén, hiểu biết Chúa và hiểu biết anh chị em mình không phải bằng kiến thức thần học, tâm lý, xã hội…, nhưng bằng trái tim nhân hậu, từ tâm, bác ái, hiền hoà…, vốn là những hoa quả của Thần khí, hoa quả của đức ái. Bởi đó, đời sống cộng đoàn và đời tu cá nhân được xây dựng vững bền nhờ tình yêu hơn nhờ kiến thức. Vì “tình yêu không bao giờ mất được” còn tri thức chỉ là “cái có ngần có hạn” (x.1Cr 13).
Như vậy, tuy việc học tập rất cần nhưng nếu người tu sĩ xem tri thức như phương thế hay mục tiêu để tìm kiếm một vị thế trong dòng hoặc để thể hiện mình, hoặc xem nó như một bảo đảm để thăng tiến đời tu thì thật tai hại. Tri thức chỉ có giá trị tích cực nếu giúp người tu sĩ đến một lối sống khiêm nhường hơn, thánh thiện hơn, luôn sống trong tâm tình tạ ơn, vì những hiểu biết mình có được là ân huệ Chúa ban để ngày thêm hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, hiểu thế giới xung quanh hơn và yêu tha nhân hơn. Ngược lại, tri thức dù có đem lại cho hoạt động của đời tu sự hiệu quả, sự thành công vĩ đại đến đâu mà trong các thành công ấy không có tình yêu thì cũng vô nghĩa như “thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng” (1 Cr 13,1), tri thức ấy chỉ là bảo đảm giả tạo cho một đời tu thiếu mất điều quan trọng cốt yếu.
- Vật chất
Ngoài tri thức, điều làm cho nhiều người ngày nay cảm thấy tự hào và an tâm đó là phương tiện vật chất. Không ai phủ nhận tiền bạc, vật dụng là những thứ rất cần thiết đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất của con người. Trong đời tu, vật chất đầy đủ và tiện nghi sẽ hỗ trợ rất lớn cho sứ vụ học tập và công tác tông đồ. Thế nhưng, có những tu sĩ lệ thuộc vào phương tiện vật chất đến nỗi xem chúng như một bảo đảm an toàn cho đời sống hay đời tu của mình. Đó là não trạng hay tâm thức phải chuẩn bị, phải tích trữ, mua sắm cho mình những thứ người khác có tôi cũng phải có. “Thói đua đòi trong nhà tu” cũng là một hiện tượng đáng suy nghĩ: đua đòi về quần áo, đồ dùng, máy móc và các phương tiện khác v.v. Cơn cám dỗ của vòng xoáy hưởng thụ vật chất rất mạnh khiến nhiều tu sĩ cảm thấy mình “thiếu thốn” điều gì đó nếu họ không có những phương tiện như người khác, dù xét kỹ nhu cầu của bản thân và công việc của mình không thực sự cần những thứ đó. Khi lãnh sứ mệnh tông đồ, họ không an tâm ra đi nếu chưa chuẩn bị được xung quanh mình những thứ vật dụng như một “siêu thị mini” để khi cần gì có nấy.
Nhưng vật chất có thực sự là yếu tố quyết định cho sự bảo đảm an toàn trong đời sống tu trì không? Ở đây bài viết sẽ không bàn về bản chất lời khấn khó nghèo vốn đã rất quen thuộc đối với các tu sĩ nhưng chỉ tìm về kinh nghiệm của Dân Chúa trong Cựu ước. Dân Israel đã trải qua những giai đoạn huy hoàng và họ đã từng cậy dựa vào những thứ họ cho đó là bảo đảm cho vận mệnh dân tộc. Tuy nhiên, kết cục nhận được từ bài học lịch sử cuộc lưu đày đã khiến họ đúc kết thành những lời khuyên dạy khôn ngoan cho con cái mình. Một vài câu trích thuộc nền Văn chương Khôn ngoan diễn tả kinh nghiệm đó: “Ai cậy trông vào của cải, người ấy sẽ quỵ ngã, còn chính nhân sẽ vươn lên như cành lá xanh tươi” (Cn 11,28). “Trong ngày thịnh nộ, của cải ích lợi chi, chỉ đức công chính mới cứu khỏi tử thần” (Cn 11,4). “Chớ nhọc công thu tích của cải, và cũng đừng bận tâm đến nó (Cn 23,4) vì của cải không bền lâu muôn thuở và danh vọng chẳng lưu truyền muôn kiếp (Cn 27,24). Đừng cậy vào tài sản của con, và đừng nói: “Tôi có đủ cả rồi!” (Hc 5,1). Đây là những kinh nghiệm hiện sinh của con người sau khi đã trải nghiệm về tính chất phù vân của vật chất và nhận ra của cải tuy là bảo đảm cho đời sống con người thật, nhưng chỉ là bảo đảm giả tạo.
Vật chất tự nó là một phương tiện tốt phục vụ cho đời sống con người thăng tiến về mọi mặt cả thể chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên, nó cũng có nguy cơ làm tha hoá con người nếu người ta quá lệ thuộc, bám víu, cậy dựa vào nó đến nỗi đánh mất căn tính của mình như trường hợp người tu sĩ sống phản chứng tinh thần khó nghèo. Nếu nói vật chất là một bảo đảm an toàn cho đời sống con người thì cũng đúng phần nào nếu chỉ xét về đời sống thể lý. Tuy nhiên, như Chúa Giêsu đã từng cảnh báo không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu (x. Lc 12,15). Mạng sống mà Chúa Giêsu nói ở đây chỉ về sự sống siêu nhiên, sự sống đời đời. Do đó, phương tiện vật chất chỉ là bảo đảm không chắc chắn, vì điều đáng kể trước mặt Chúa không phải là điều tôi có, nhưng là chính con người tôi.
- Những mối tương quan
Cũng như tri thức và vật chất có vai trò thiết yếu đối với con người ngày nay, những mối tương quan cũng vậy. Con người tự bản chất có tính xã hội và luôn hướng đến tương quan với tha nhân, với vạn vật và Thiên Chúa. Yêu thương và xây dựng tương quan thân ái với bạn hữu, anh chị em trong cộng đoàn và những người thân quen giúp người tu sĩ yêu mến Thiên Chúa hơn, và ngược lại, yêu mến Thiên Chúa giúp họ sống tốt mối tương quan với tha nhân hơn. Nhìn chung, những mối tương quan liên đới lành mạnh và trong sáng sẽ hữu ích trong đời sống thiêng liêng và phát triển thuận lợi sứ vụ. Tuy nhiên, bên cạnh những mối tương quan theo nghĩa tích cực, đời tu lại có những mối tương quan “mập mờ”, nơi đó người tu sĩ tìm thấy một sự an tâm nào đó. Sự an tâm theo kiểu là chỗ “cậy dựa” khiến họ giảm sút niềm tin và cậy trông vào Chúa nhưng lại dựa vào một sự bảo đảm nơi con người. Lời Thánh vịnh người tu sĩ vẫn đọc quen thuộc “Cậy vào thần thế vua quan, chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời” (Tv 118,9), thế nhưng, việc tìm nương tựa nơi những mối tương quan nhân loại hơn tựa nương vào Chúa là điều vẫn có thể xảy ra.
Trong đời sống cộng đoàn, có những kiểu xây dựng tương quan theo nhóm thân hữu với quan niệm “nhất thân nhì thế.” Một cách vô thức, người tu sĩ đặt hy vọng của mình nơi những người có thể cho mình được an toàn trong đời tu, hoặc có thể được ưu đãi, cất nhắc lên vị trí này, vị trí nọ. Một số khác lại khéo léo tìm cách lấy lòng nơi những người có vị thế trong dòng để được nâng đỡ, hầu mong một sự bảo đảm nào đó. Ngoài ra, một khía cạnh khác trong khi thi hành sứ vụ, có trường hợp lại tìm sự “bình an” nơi những quan tâm tình cảm hay giúp đỡ vật chất từ những người thân quen bên ngoài hội dòng hầu đem lại đời tu sự an nhàn, vui vẻ, có phương tiện hiện đại để làm việc v.v.
Sự tương quan có giá trị giúp thăng tiến con người về nhân cách, hiểu biết và hiệp thông. Nhưng nếu con người cậy dựa vào những mối tương quan nhân loại thì “Nơi tin tưởng của nó như sợi chỉ treo mành, chỗ an toàn của nó khác chi tấm màng nhện” (G 8,14). Quả thực, Kinh Thánh dùng hình ảnh “sợi chỉ treo mành” và “tấm màng nhện” nói lên tính mong manh của những bảo đảm giả tạo khi con người lãng quên Thiên Chúa (x. G 8,13-14). Người ta có thể tìm thấy những may mắn thuận lợi nào đó cho đời tu khi dựa vào người này, người kia nhưng đó không bao giờ là bảo đảm đích thực cho một đời tu hạnh phúc, bền vững và thật sự ý nghĩa như Chúa muốn. Vì thế, đối với người tu sĩ, điều quan trọng trước hết và trên hết là xây dựng tương quan sâu đậm với Thiên Chúa, như Đức Benecicto XVI thường nhấn mạnh khía cạnh tình bạn với Chúa Giêsu trong đời sống Kitô hữu, đặc biệt đối với người trẻ, trung tâm đời sống hạnh phúc đích thực là tình bạn với Chúa Giêsu, và tình yêu đối với Chúa Giêsu là chìa khóa của hạnh phúc đích thực.
Hạnh phúc thực sự của đời tu: đi từ nhu cầu con người đến giá trị tâm linh
Những bảo đảm giả tạo có thể khiến đời tu hôm nay rơi vào lầm lạc, nhưng chính thực tại ấy lại thôi thúc người tu sĩ trở về với những “bảo đảm” đích thực của ơn gọi thánh hiến. Từ ngữ “bảo đảm” ở đây không hàm ý sự chắc chắn theo kiểu con người có thể tự tạo ra, như nghĩa hiểu về những bảo đảm giả tạo trên đây. Vì sự bền vững của đời tu không thể lấy gì bảo đảm từ phía con người nhưng trên hết đến từ ân sủng của Thiên Chúa. Vì thế, đối lại với những bảo đảm giả tạo, bài viết hướng đến một vài yếu tố cần thiết nhìn từ phía con người như sự cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa cho một đời tu bền vững, hạnh phúc, triển nở và ý nghĩa.
- Hoàn thiện nhân bản bằng việc ý thức, chăm lo và phát triển nhu cầu bản thân
Theo tu đức truyền thống, có thể kể đời sống cầu nguyện, đời sống cộng đoàn và sứ mệnh phục vụ tha nhân là ba yếu tố căn yếu của đời tu. Việc chăm lo nhu cầu bản thân thường bị xem đi ngược với nền tu đức “trọn lành” đề cao sự hy sinh, khổ chế, từ bỏ mình. Tuy nhiên, ngày nay đời sống thánh hiến không còn chỉ được nhìn dưới khía cạnh “duy tu đức” nhưng toàn diện hơn, bản chất tu sĩ vẫn luôn là những con người có đời sống thể lý cũng như tâm lý, tự nhiên cũng như siêu nhiên. Do đó, để sống đời tu hạnh phúc và triển nở, chắc chắc không thể bỏ qua các yếu tố thể lý, tâm lý, tình cảm, tinh thần và trí tuệ… mà trên đây đã đề cập đến một vài điểm như vật chất, tri thức, các mối tương quan. Chúng là thành phần trong tháp nhu cầu theo Abraham Maslow, chung quy được chia thành các nhóm: nhu cầu sự sống, nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thần và nhu cầu tâm linh. Các nhóm nhu cầu này được xem là cơ bản và thiết yếu nhất của đời sống con người mà nếu loại bỏ chúng hoặc không quan tâm đáp ứng đúng đắn con người sẽ không thể phát triển lành mạnh.
Nếu như nền tu đức trước Công đồng Vaticanô II, kiểu mẫu “đời sống trọn lành” được đề cao thì sau Vaticanô II xuất hiện các kiểu mẫu tu đức “thể hiện mình”, “chấp nhận mình”, và ngày nay mẫu “hội nhập” là kiểu mẫu đích thực và phù hợp hơn cả. Từ nguồn gốc, mẫu này liên kết với nhu cầu căn bản của hữu thể con người, tức hội nhập toàn thể con người cả phương diện thiêng liêng lẫn nhân bản xung quanh Chúa Kitô là trung tâm đời sống của người tu sĩ. Theo đó, tu sĩ cần ý thức các nhu cầu bản thân, kết hợp hài hòa chúng và quan tâm chăm sóc bản thân từ sức khỏe, sự an toàn thể lý đến tinh thần; cũng như phát triển các nhu cầu đạt đến mức “hoàn thiện bản thân” là bậc cao nhất khi người tu sĩ thực hiện mục đích đời mình, thể hiện khả năng, sáng tạo, thể hiện được bản thân và phát triển các tiềm năng như “những nén bạc” sinh lời cho sứ mạng mà Chúa Giêsu mong muốn.
Mặt khác, Abraham Maslow phân biệt hai trạng thái sung sướng và hạnh phúc tương ứng với hai cấp độ đáp ứng các nhu cầu. Các nhu cầu sự sống, vật chất chỉ có thể đem lại trạng thái sung sướng, được thỏa mãn khát vọng hưởng thụ của cải, danh vọng, tài năng, quyền lực v.v. Sự thỏa mãn này dễ đưa đến thái độ ích kỷ, thích hưởng thụ. Trái lại, người ta chỉ hạnh phúc khi đáp ứng nhu cầu tinh thần và tâm linh. Thế nhưng, thực tế số tu sĩ thực sự cảm nghiệm hạnh phúc đời tu không nhiều. Theo một khảo sát tại Hoa Kỳ, chỉ khoảng 20% tu sĩ cảm nghiệm hạnh phúc trong đời tu. Còn ở Việt Nam thì chưa có khảo sát thực tế. Phải chăng vì xã hội tiêu thụ ngày nay làm cho người ta thường cảm thấy chưa thỏa mãn với nhu cầu vật chất hoặc chỉ chôn chân trong sự an toàn, hay dừng lại trong các mối tương quan mà không vươn đến những nhu cầu cao hơn. Người tu sĩ có nguy cơ lầm lẫn giữa sung sướng đang có với hạnh phúc đích thực, và do đó, họ dễ chỉ quanh quẩn trong các nhu cầu cơ bản. Trong khi đó, ý nghĩa đời tu không hệ tại ở sự sung sướng nhưng là hạnh phúc, khi người tu sĩ cảm nhận sự sung mãn trong tâm hồn vì tìm thấy ý nghĩa đời mình, hạnh phúc thôi thúc họ khát vọng yêu thương và cống hiến bản thân cho cuộc đời. Theo Maslow, chỉ khi đáp ứng tương đối thỏa đáng các nhu cầu vật chất, nơi con người mới xuất hiện các nhu cầu cao hơn, nhưng sự thỏa mãn các nhu cầu vật chất thế nào lại tùy thuộc vào nhận thức tích cực hay tiêu cực của mỗi cá nhân. Như vậy có thể nói, để có hạnh phúc thật, người tu sĩ được mời gọi hài lòng với lối sống đơn giản, thu hẹp sự tiện nghi sung sướng và mở rộng sự quan tâm đến người nghèo, người khổ hơn để mau “hoàn tất” những nhu cầu cơ bản và vươn đến những giá trị siêu nhiên, là sự gặp gỡ Chúa trong mọi sự và trong mọi người mà mình phục vụ.
Nhìn chung, dù những nhu cầu vật chất và tinh thần theo Maslow là thiết yếu, nhưng chúng phần nhiều liên quan đến những yếu tố bên ngoài tác động đến con người như đời sống sinh học, tâm lý và xã hội. Trong khi đời tu cốt yếu hướng đến giá trị nội tâm bởi sự tự do chọn lựa ý thức của cá nhân. Và như thế, nếu tháp nhu cầu tự nhiên đi từ sự sống thể lý đến tâm linh, thì đời thánh hiến lại bắt đầu từ chiều sâu thiêng liêng, nơi Thiên Chúa là khởi đầu và cùng đích của mọi sự. Vì thế, nhìn từ phía đời tu, có thể nói đến một “thang giá trị Kitô giáo” được sắp xếp theo trật tự ưu tiên ngược lại như sau: giá trị tâm linh, giá trị sự sống, giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Trong đó, giá trị tâm linh đứng đầu và quan trọng hơn cả. Bởi vì đời sống Kitô hữu nói chung và đời sống thánh hiến nói riêng mang chiều kích cánh chung, “quê hương chúng ta ở trên trời” (Pl 3,20) với hạnh phúc vĩnh cửu trong Thiên Chúa chứ không chỉ giới hạn nơi sự sống trần thế với những nhu cầu hạnh phúc hiện tại. Chiều kích tâm linh chính là nhu cầu sâu thẳm nhất của đời người: nhu cầu nhận biết, yêu mến, gặp gỡ và kết hợp với Thiên Chúa. Vì thế, việc hoàn thiện nhân bản trong đời tu với những nhu cầu tự nhiên là cần thiết nhưng chỉ là nền tảng để vươn tới việc hoàn thiện đời sống siêu nhiên. Giá trị tâm linh được xây dựng trên đức tin, đức cậy, đức mến mới thực sự là yếu tố bền vững và hạnh phúc của đời thánh hiến.
- Sống giá trị tâm linh với đức tin, đức cậy, đức mến
Nếu theo tháp nhu cầu tự nhiên, sự sống là nhu cầu quan trọng hàng đầu, hoặc gần đây có ý kiến cho rằng nhu cầu “được yêu thương và thuộc về” mới thực sự quan trọng nhất đối với con người, thì theo thang giá trị Kitô giáo, giá trị tâm linh phải đứng đầu và quan trọng hơn các giá trị còn lại. Vì đức tin Kitô giáo nhìn thấy nguồn gốc, hiện tại và cùng đích sự sống của con người ở trong Thiên Chúa: “Thiên Chúa là nguồn gốc sự sống vì Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo, hiện tại sự sống vì Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng và Cứu Độ, cùng đích sự sống vì Thiên Chúa là Đấng Thần Hóa con người.” Với bản chất cánh chung của đời thánh hiến, tu sĩ hơn ai hết là những người cảm nghiệm rõ tính chất mong manh giới hạn của những thực tại trần gian, những tương quan nhân loại không thể đáp ứng hết nỗi khát khao gặp gỡ Đấng Tuyệt Đối. Vì thế, đời sống tâm linh với lòng tin, cậy, mến, hay nói cách khác, niềm tin, hy vọng và tình yêu Chúa chính là nỗi khát mong nối kết cuộc sống con người với thực tại vô biên là Nước Trời vĩnh cửu.
Nhờ đức tin, đời sống thánh hiến mới hiện hữu, tồn tại qua mọi thử thách khó khăn ngặt nghèo nhất và bền vững. Những đáp ứng các nhu cầu tự nhiên có thể đem lại cho con người niềm an vui lúc nào đó nhưng không thể bảo đảm cho đời tu trong những cơn khủng hoảng nặng nề. Chỉ có “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Hr 11,1). Sở dĩ người tu sĩ dám trao phó cuộc đời mình cho Thiên Chúa là vì họ nhìn thấy sự hiện diện của Đấng Vô Hình đằng sau mọi sự vật, mọi biến cố, mọi hoạt động của đời mình. Nhờ tin vào Thiên Chúa và tin vào Nước Trời, họ dám chấp nhận, dám sống những giáo huấn của Nước Trời và cả những nghịch lý mà thế gian cho là “điên rồ” (x. Mt 5-7; 1Cr 1,17-31).
Cùng với niềm tin, “cái nhìn của những người thánh hiến chỉ có thể là cái nhìn của hy vọng.” Không phải hy vọng nơi bất cứ ai hay bất cứ mối lợi về tinh thần hay vật chất nào, nhưng chỉ đặt hy vọng nơi Chúa – nguồn mạch của hy vọng (Tv 39,8). Chỉ có hy vọng vào Thiên Chúa, người tu sĩ mới có thể đón nhận những đau khổ, nghịch cảnh mà không phản kháng, thất vọng, bỏ cuộc. Niềm hy vọng vào những lý do tự nhiên có thể có theo lẽ thường, nhưng để có thể bền chí trung thành trong mọi thử thách gian truân của đời thánh hiến thì phải có đức cậy Kitô giáo soi chiếu hướng dẫn tư tưởng, cái nhìn, thái độ và hành động của người tu sĩ. Chỉ có niềm hy vọng hoàn toàn vào Thiên Chúa – “Đấng làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28), người tu sĩ mới bình tâm trong mọi hoàn cảnh và kiên trì cầu nguyện, vì hy vọng cậy trông “những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18) – một niềm hy vọng hạnh phúc vĩnh cửu nơi Thiên Chúa.
Sau cùng, theo thánh Phaolô, đức tin và đức cậy rất quan trọng nhưng đức mến đối với Thiên Chúa và tình yêu với tha nhân thì cao trọng hơn cả (x.1Cr 13,13). Vì những giá trị vật chất hay tinh thần, những việc làm hay ơn riêng mà người ta tự tin và hãnh diện sẽ qua đi nhưng chỉ có “chỉ có đức tin hành động nhờ đức ái” (Gl 5,6) tồn tại mãi. Tình yêu là “con đường trổi vượt” hơn cả và sẽ “không bao giờ mất được” (x.1Cr 12,31; 13,8). Chỉ có tình yêu có thể đứng vững trước mọi sóng gió cuộc đời “Nước lũ không dập tắt nổi tình yêu, sóng cồn chẳng tài nào vùi lấp” (Dc 8,7). Tình yêu hay đức mến bắt nguồn từ Thiên Chúa cũng là một tình yêu vươn tới Thiên Chúa và hướng tới tha nhân cách vô vị lợi. Chính tình yêu là nguồn sức sống cho đức tin và là ánh sáng đem hy vọng đến đích chắc chắn. Bởi đó tình yêu có giá trị quan trọng nhất trong đời sống thánh hiến vì đó là nhân đức lớn nhất, nhân đức hoàn hảo và quyết định mọi sự, nhân đức duy nhất có khả năng làm cho người ta “thấy” Thiên Chúa (x. 1Cr 13,12).
Sống giá trị tâm linh với đức tin, cậy, mến chính là sống trong mối tương quan cá vị với Chúa, là cảm nghiệm Thiên Chúa quyền năng, trung tín và yêu thương luôn đồng hành và dẫn dắt con người vào hạnh phúc vĩnh cửu. Nếu không có cái nhìn tâm linh, những khủng hoảng trong đời tu dễ rơi vào bế tắc hoặc không thể giải quyết trọn vẹn, vì người ta chỉ thấy sự vật là sự vật mà không thấy được huyền nhiệm ân sủng trong một thực tại sâu xa và lớn lao hơn. Ngược lại, niềm tin, niềm hy vọng và tình yêu vào Chúa giúp người tu sĩ tin, yêu và hy vọng vào cuộc đời hơn, và hơn nữa, cảm nghiệm ngay trong tâm hồn niềm hạnh phúc được yêu thương, niềm hạnh phúc vĩnh cửu ngay trong thực tại đời thường hằng ngày.
Kết luận
Đời sống thánh hiến là một ân huệ đặc biệt của Thiên Chúa dành cho các tu sĩ, một cuộc đời được mời gọi nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô và “được biến hình” cùng với Người. Một ơn huệ thật lớn lao nhưng đồng thời, ân sủng ấy lại được “chứa đựng nơi những chiếc bình sành” (x. 2Cr 4,7) nơi những tu sĩ vẫn đang còn là những con người chứ chưa phải là thánh nhân. Những con người vẫn đang trên đường trần thế tìm kiếm những nhu cầu hiện sinh nhưng đồng thời khát vọng hướng đến Nước Trời và những giá trị vĩnh cửu. Trên con đường ấy, đôi khi người tu sĩ có thể bị lầm lạc bởi những bảo đảm giả tạo của thế gian đem lại. Khi đó, ba yếu tố căn yếu: đời sống cầu nguyện gặp gỡ Chúa, tình yêu thương trong đời sống cộng đoàn và sứ mệnh phục vụ tha nhân vẫn luôn là yếu tố cần thiết nuôi dưỡng đời tu. Những yếu tố này được nhìn trong cái nhìn mới của thang giá trị Kitô giáo với trật tự ưu tiên là giá trị tâm linh kết hợp hài hòa với các giá trị sự sống, vật chất và tinh thần mà không loại trừ hay coi thường khía cạnh nào. Nói cách khác, để có thể xây dựng đời tu hạnh phúc, triển nở và bền vững cần đức tin, hy vọng và tình yêu soi chiếu toàn bộ đời sống người tu sĩ, từ việc cầu nguyện đến đời sống thể lý, tâm lý, tình cảm, các tương quan bên trong hay bên ngoài cộng đoàn v.v, cũng như thúc đẩy tinh thần dấn thân phục vụ tha nhân. Tóm lại, thang giá trị Kitô giáo chính là sự kết hợp hài hòa giữa nhu cầu hiện tại và giá trị vĩnh cửu, giữa tự nhiên và siêu nhiên, giữa yếu tố “người” và “thánh” nơi người sống thánh hiến sẽ đem lại cho đời sống tu trì ngày nay sức mạnh và ý nghĩa.
Nt Maria Hải Châu, SSS
Nguồn: dongten.net