Các người di cư bất hợp pháp nhận quần áo do Cơ quan Cứu trợ Công giáo phân phát tại Calais. MARC CHARUEL / Ảnh 12/AFP

Trong tông huấn “Dilexi te, Ta đã yêu con” công bố ngày thứ năm 9 tháng 10 năm 2025, Đức Lêô XIV đặt lòng bác ái với người nghèo làm tiêu chuẩn chân lý của Công giáo. Đối diện với những tà thuyết đương thời, ngài củng cố lập trường: lãng quên hay khinh miệt người nghèo không chỉ đơn thuần là thờ ơ về mặt đạo đức, mà còn là đoạn tuyệt với Phúc Âm.

Trong Thông điệp Ta đã yêu con Dilexi te công bố ngày thứ năm 9 tháng 10 năm 2025, được ký vào ngày lễ Thánh Phanxicô Assisi, Đức Lêô XIV đã tiếp nối một văn kiện của Đức Phanxicô khởi xướng trước khi ngài qua đời, dành riêng cho vấn đề nghèo khó. Ngài khẳng định các cam kết của vị tiền nhiệm, thúc đẩy tính nhất quán để đi đến kết luận hợp lý.

Ngài viết: “Bác ái không phải là con đường tùy chọn, nhưng là tiêu chuẩn của việc thờ phượng đích thực” (Dilexi te, đoạn 42), đây không phải là một công thức, nhưng là ý nghĩa của việc trở thành người Công giáo. Khi ký văn bản dài khoảng ba mươi trang này, ngài xác nhận triều sắp kết thúc của ngài không phải là chuyện chỉ xảy ra một lần. Cam kết với người nghèo không phải là nỗi ám ảnh của Đức Phanxicô, đó là “tiêu chuẩn của đạo công giáo đích thực”

Ở đây, Đức Lêô XIV không ký thêm một văn bản xã hội nào nữa; ngài đang đảo ngược một hệ thống thứ bậc ngầm định: chúng ta không còn có thể nói “Tôi có đức tin, do đó tôi cam kết với người nghèo”, nhưng hoàn toàn ngược lại: cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, mục tiêu của đời sống người tín hữu kitô chủ yếu ở cuộc gặp gỡ với người nghèo. Đức Lêô nhấn mạnh: “Chúng ta không ở trong lãnh vực bác ái, nhưng ở trong lãnh vực của Mạc Khải (đoạn 6). Cam kết với người dễ bị tổn thương, người di cư, người bệnh, người già neo đơn, người sống trên đường phố, không phải là hệ quả xã hội của đức tin: đó chính là đức tin.”

Cụm từ “lựa chọn ưu tiên cho người nghèo”, một cụm từ thường bị giản lược thành một xu hướng hay một tình cảm trong Giáo hội, ở đây Đức Lêô lấy lại ý nghĩa thần học nguyên thủy của nó: đây không phải là lựa chọn của con người, nhưng là lựa chọn của Thiên Chúa. Chính Ngài là Đấng ưu tiên của họ: “Thật vậy, Thiên Chúa ưu ái người nghèo: chính họ là những người đầu tiên được Chúa ngỏ lời cầu xin, lời hy vọng và giải thoát…” (đoạn 21). Còn những người khác thì sao? Chắc chắn Lời Chúa cũng đến với họ, nhưng thông qua những người nghèo nhất. Một liều thuốc cho họ.

Như vậy, Đức Lêô XIV đã vượt qua ngưỡng giáo lý: ngài không xin người công giáo phải quảng đại, nhưng xin họ phải nhận ra nơi Thiên Chúa ngự. Nơi họ có thể gặp gỡ Ngài. Là người Công giáo là đồng hành với người nghèo.

Định nghĩa này vang vọng trong bối cảnh một phong trào dân túy cánh hữu cực đoan đang trỗi dậy ở nhiều quốc gia, sẵn sàng nói về Chúa nhưng lại lên án việc chăm sóc những người yếu thế. Biểu tượng của phong trào này là Tổng thống Donald Trump, ông hứa hẹn sẽ “xóa bỏ những định kiến chống Kitô giáo” nhưng lại xem người di cư là “những người đầu độc dòng máu của đất nước”, ông hứa sẽ trục xuất người vô gia cư khỏi Washington. Trong bài phát biểu của ông và của các đại diện châu Âu, nghèo đói trở thành tội ác, lòng trắc ẩn trở thành điểm yếu, thành công trở thành dấu hiệu của việc bầu cử. Trước tất cả những bóp méo này, Đức Lêô XIV đã phản ứng mạnh mẽ: “Chúng ta không thể quên người nghèo nếu chúng ta không muốn bước ra khỏi năng động sống động của Giáo hội, vốn bắt nguồn từ Phúc Âm và làm phong phú thêm từng khoảnh khắc của lịch sử.” Đoạn 15 này được triển khai rõ, định hình cho toàn bộ văn bản của ngài.

Chắc chắn, ngài đã dành thời gian để lắng nghe. Chắc chắn, ngài có một cảm giác hiệp nhất. Nhưng văn bản ngài ký chứng tỏ ngài không ngại đưa ra quyết định: “Ngay cả những người theo đạo, trong nhiều trường hợp, họ để mình bị ảnh hưởng bởi những thái độ mang dấu ấn của hệ tư tưởng thế tục hoặc bởi những định hướng chính trị và kinh tế dẫn đến những khái quát không công bằng và những kết luận sai lệch. Việc thực hành bác ái bị khinh miệt hoặc chế giễu, như thể đó là nỗi ám ảnh của một số ít người chứ không phải là trái tim cháy bỏng của sứ mệnh Giáo hội, tôi nghĩ chúng ta phải luôn đọc lại Phúc Âm để không có nguy cơ thay thế Phúc Âm bằng não trạng thế tục. Dilexi te là liều thuốc giải độc.”

Từ đối tượng đến chủ thể

Đáng chú ý, tông huấn đã cẩn thận không biến nghèo đói thành một phạm trù tinh thần, nhưng nói về những con người thực sự. Ngay từ chương đầu tiên, Đức Lêô XIV đã đưa ra một định nghĩa chính xác về ý nghĩa của từ “nghèo”. Trong đoạn 13, ngài trích dẫn một văn kiện được các quốc gia châu Âu thông qua năm 1984 – ngài viết: “Người nghèo, được hiểu là những cá nhân, gia đình và nhóm người có đời sống vật chất, văn hóa và xã hội hạn hẹp đến mức họ bị loại trừ khỏi lối sống tối thiểu được chấp nhận. Không lý tưởng hóa: nghèo đói không được xem là một lựa chọn đạo đức, nhưng là một thực tế, kết quả của những lựa chọn xã hội bất bình đẳng và những ‘ảo tưởng’ của chúng ta.”

“Ảo tưởng về hạnh phúc”

Đức Lêô lên án: “Điều mà một cuộc sống sung túc mang lại đã thúc đẩy nhiều người có một quan niệm về sự tồn tại tập trung vào việc tích lũy của cải và thành công xã hội bằng mọi giá, kể cả gây bất lợi cho người khác và lợi dụng các lý tưởng xã hội bất công và các hệ thống chính trị-kinh tế thiên vị kẻ mạnh nhất.”

Phù hợp với các văn bản của Đức Phanxicô, nhưng ở đây chặt chẽ hơn về mặt khái niệm, Đức Lêô XIV bác bỏ hai thái cực: thái cực của tâm linh hóa, biến nghèo đói thành biểu tượng đơn giản của tách biệt, và “lòng nhân từ”, một thuật ngữ ngài dùng theo nghĩa tiêu cực: “Người nghèo là đối tượng có khả năng tạo ra một văn hóa riêng của họ, chứ không phải đối tượng của lòng bác ái” (đoạn 100).

Lựa chọn ngữ nghĩa này rất quan trọng. Ở đây, Đức Lêô kêu gọi các tín hữu không hành động vì người nghèo, nhưng cùng với họ: những người bấp bênh ở đây là các nhân vật chính, là các diễn viên, là những người phát ngôn. Sự nhấn mạnh này, vốn đã có trong bài của Đức Phanxicô được diễn đạt mang tính giáo huấn ở đây: mở rộng thần học giải phóng, đóng góp này được Đức Lêô XIV công nhận rõ ràng ở đây, trích dẫn văn kiện Rôma năm 1984 để làm nổi bật một đoạn tích cực: “Mối quan tâm đến sự tinh tuyền của đức tin gắn liền chặt chẽ với mối quan tâm cung cấp, thông qua một đời sống thần học toàn diện, một lời đáp trả bằng chứng tá phục vụ hữu hiệu cho tha nhân, và đặc biệt cho người nghèo và người bị áp bức.” Tác giả của những dòng này là Hồng y Ratzinger, Giáo hoàng Đức Bênêđictô tương lai. Tính chính đáng của kinh nghiệm Mỹ La-tinh hậu Công đồng Vatican II, được định hình bởi sự đau khổ và kháng cự của người dân, được nhắc lại ở đây. Về cơ bản, Dilexi te tìm cách hợp nhất những gì một số người chia rẽ: đức tin và dấn thân, cầu nguyện và phục vụ, thờ phượng và bác ái.

Đức Lêô rất cơ bản: “Bác ái trở thành tiêu chuẩn: nếu việc thờ phượng không dẫn đến lòng trắc ẩn và gặp người nghèo, thì nó vô nghĩa.” Sự diễn đạt rõ ràng chưa từng có về mặt phụng vụ và xã hội này, rõ ràng phản đối một thực hành tôn giáo chỉ quan tâm đến trau dồi các nghi lễ, một cam kết xã hội tách rời khỏi đức tin.

Theo ngài, giúp đỡ người nghèo cũng có nghĩa là đồng hành với họ về mặt tinh thần. Trong Dilexi te, ngài nhắc chúng ta: “Sự bấp bênh không chỉ đơn thuần là thiếu thốn vật chất. Sự phân biệt đối xử tồi tệ nhất mà người nghèo phải chịu là thiếu chăm sóc tinh thần (…). Lựa chọn ưu tiên cho người nghèo trước hết phải được chuyển thành quan tâm tôn giáo hàng đầu.” Ngài trích dẫn Evangelii Gaudium, tông huấn đầu tiên của vị tiền nhiệm. Đức Lêô nhấn mạnh: “Sự hỗ trợ đích thực không chỉ bao gồm trong việc nuôi dưỡng hay chăm sóc, mà còn trong việc khôi phục phẩm giá và tiếng nói, trong việc mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Trong việc khơi dậy hy vọng. Đây chính là điều làm cho nó trở thành một sứ mệnh đặc biệt của Giáo hội.”

Thần học gia François Odinet, tác giả lời tựa của Dilexi te nhấn mạnh câu nói trọng tâm: “Giáo hội chỉ thực sự là hiền thê của Chúa khi Giáo hội cũng là chị em của người nghèo (đoạn 58). Văn bản này là cuộc tấn công chính trị chống lại các biện pháp thắt lưng buộc bụng và xã hội tiêu thụ, nhưng trên hết, là lời nhắn nhủ đến người Công giáo như một câu hỏi: anh chị em có biết chất lượng của Giáo hội được đo lường bằng chất lượng của mối quan hệ Giáo hội với người nghèo không?”

Về cấu trúc, Dilexi te vẫn là một tông huấn kinh điển của các tông đồ: một sự tái diễn giải của các giáo phụ, một suy tư dài về truyền thống tu trì và giáo dục Kitô giáo, một lời mở đầu về cánh chung: “Bác ái Kitô giáo, khi được thể hiện, sẽ trở nên giải phóng” (đoạn 61). Hai ngàn năm Kitô giáo được tái diễn giải ở đây dưới góc nhìn của tinh thần nghèo khó. Đức Lêô đã trích Thánh Ambrose và Thánh Augustinô, nhắc chúng ta bố thí không phải là một cử chỉ từ thiện, nhưng là con đường thanh tẩy. Ngài ca ngợi sự nghèo khó tự nguyện của các dòng khất sĩ,  biểu tượng của một Giáo hội “lữ hành, khiêm nhường và huynh đệ, sống giữa người nghèo không phải bằng cách cải đạo, nhưng bằng bản sắc” (đoạn 67). Ngài không quên vai trò của phụ nữ trong các câu chuyện: Louise de Marillac, các Nữ tu Bác ái, các nữ tu Ursulines… Cảm giác “chạm” của họ, sự gần gũi cụ thể của họ với người bệnh… Thần học gia dòng Phanxicô Frédéric-Marie Le Méhauté nhận xét: “Các tham chiếu này không mới, nhưng việc tập hợp chúng ở đây cho thấy sự mạch lạc của chúng. Chúng tạo thành một hệ thống. Với lời khuyên này, việc thực hành với người nghèo trở thành một tiêu chuẩn của chính thống giáo.”

Về bản chất, Dilexi te không đề xuất một chương trình xã hội, nhưng một chuyển đổi quan điểm: trở thành người Công giáo là chấp nhận chân lý đức tin được ẩn giấu một cách đặc quyền trên khuôn mặt của người nghèo. Trong một thế giới mà viện trợ nhân đạo đôi khi bị cho là ngây thơ, phúc lợi xã hội bị tấn công, và an tử cho người vô gia cư có thể được thảo luận vào giờ cao điểm trên các kênh tin tức ở Hoa Kỳ, Đức Lêô XIV đã khôi phục lại cho lòng bác ái nét truyền giáo của nó. Dilexi nhắc chúng ta, khinh miệt người nghèo không phải là tinh thần Công giáo.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Nguồn: phanxico.vn