Giáo Dục Là Một Con Đường Dẫn Đến Sự Sống

Giáo dục có thể tạo ra sự khác biệt quan trọng: nó có thể trang bị cho các cá nhân để lao tác vì một tương lai tốt đẹp hơn.

Người tị nạn, người di cư dễ bị tổn thương và người di cư trong nước (nội địa) là những cá nhân và cộng đồng buộc phải rời đi do bị ngược đãi, bất công, thiên tai và chiến tranh. Họ cũng bao gồm những người mà đói nghèo – thậm chí là tuyệt vọng – buộc phải tìm kiếm một nơi mà họ, và đặc biệt là con cái họ, có thể thực sự sống. Trong tất cả những hoàn cảnh này, bất chấp mọi thách thức và trở ngại, giáo dục có thể tạo ra sự khác biệt quan trọng: nó có thể trang bị cho các cá nhân để lao tác vì một tương lai tốt đẹp hơn cho chính họ, gia đình họ, người dân của họ, xã hội mà dần dần họ định cư và thậm chí cho cả những cộng đồng gốc gác của  họ.[1]

Tôi thuộc về một gia đình di cư – tị nạn; tôi mới hai tuổi rưỡi khi chúng tôi chạy trốn khỏi Tiệp Khắc và đến Canada. Theo kinh nghiệm của tôi, tôi biết rằng một khi mất đi quê hương, người ta sẽ không thể nào tìm được một quê hương khác. Người ta có thể xem một cái gì đó gần như là nhà nhưng luôn có một khoảng cách không thể bù đắp, khoảng cách đó mãi mãi là sự mất mát về văn hóa, ngôn ngữ, mạng lưới quan hệ, cách tương tác với thiên nhiên. Tóm lại, đó là sự mất đi thế giới trong đó mỗi chúng ta lần đầu tiên học cách để trở thành một tạo vật được Chúa chúc phúc. Giữa việc tránh đồng hóa và khao khát một sự hòa nhập có ý nghĩa, giáo dục chính là cơ hội để chúng ta lấy lại một phần những gì đã mất khi buộc phải rời khỏi cộng đồng gốc của mình cũng như để đạt được những điều mới mẻ.

Trong tiến trình lâu dài của việc chữa lành những vết thương do bạo lực trực tiếp và cấu trúc gây ra, đánh dấu sự di dời cưỡng bức, và trong hành trình học biết cách kiến tạo niềm hy vọng mang lại sự sống giữa muôn vàn lý do dẫn đến tuyệt vọng ngày càng gia tăng, thì giáo dục chính là chìa khóa. Giáo dục vừa là mục tiêu vừa là phương tiện, là đích đến và là con đường dẫn đến sự sống, bởi vì ngoài sức mạnh biến đổi xã hội tức thời hơn, nó còn đáp ứng một phẩm chất cơ bản của con người: đó là khao khát được học hỏi, được biết, vượt qua chính mình trong việc chiêm nghiệm những câu hỏi lớn về cuộc sống và thế giới, những câu hỏi cần được giải đáp.

Trong hành trình học biết cách kiến tạo niềm hy vọng mang lại sự sống giữa muôn vàn lý do dẫn đến tuyệt vọng ngày càng gia tăng, thì giáo dục chính là chìa khóa.

Khi chúng ta nghĩ về giáo dục với và cho các cộng đồng người di cư và tị nạn, chúng ta hãy luôn nhớ rằng, về cơ bản, giáo dục chạm đến điểm sâu xa nhất của mầu nhiệm về con người, nền tảng thánh thiêng, cái vượt trên mọi ứng dụng thực tiễn và vị lợi của giáo dục, dẫu cả hai điều này đều quan trọng và cần thiết đối với sự sống còn, sự ổn định và tiến bộ trong xã hội. Bằng cách đặt nền tảng cho quan niệm của chúng ta về giáo dục trong chân trời rộng lớn hơn này của bản chất con người, hướng đến những câu hỏi lẫn câu trả lời vô hạn, hướng đến khả năng học hỏi và hiểu biết vô hạn, và hướng đến sự thật rằng mỗi người chúng ta là một câu hỏi sống động đối với chính mình, chúng ta có thể đảm bảo tốt hơn rằng giáo dục trong các cộng đồng người di cư và tị nạn không trở thành công cụ nghiêm ngặt, không bị thu hẹp thành “Tôi học để kiếm tiền”, mà luôn hướng đến sự trọn vẹn của sự huyền nhiệm của con người.

Thông điệp Laudato Sí (LS)[2] nêu rõ rằng chúng ta hiện đang sống trong một thế giới mà mô hình kỹ trị đã được toàn cầu hóa, nơi thế giới và cuộc sống chỉ đơn giản bị thu hẹp thành một vấn đề cần giải quyết bằng công nghệ hoặc khoa học, và nơi mà một chủ thể, “sử dụng các thủ tục hợp lý và logic, dần dần tiếp cận và giành quyền kiểm soát đối với một đối thể bên ngoài” (LS, 106). Đức Phanxicô nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta đang đứng trước một thách thức lớn về văn hóa, tâm linh và giáo dục (LS, 202). Chúng ta không được để những cây cầu giáo dục mà chúng ta xây dựng chỉ đơn giản là củng cố và khuếch đại chính mô hình kỹ trị mà cuối cùng biến con người thành một vấn đề cần giải quyết, và con người không còn là một bí ẩn cần phải khám phá nữa. Cách chúng ta suy nghĩ về giáo dục với và dành cho các cộng đồng di cư và tị nạn cũng không ngoại lệ.

Tầm nhìn rộng hơn này của giáo dục xét như là mục đích và là phương tiện của mầu nhiệm con người, đặt nền trên khoa học nhân văn, không được trở thành đặc quyền của số ít. Trên toàn cầu, khoa học nhân văn xét như một phần thiết yếu của giáo dục đang dần biến mất. Ngày càng nhiều, những gì từng được gọi là nghệ thuật tự do, những cách suy nghĩ hướng con người đến sự tự do trong suy nghĩ và hành động, đang biến mất và bị thay thế bởi các dạng kiến ​​thức kỹ thuật và công cụ. Để đáp ứng nhu cầu giáo dục của cộng đồng người di cư và tị nạn, có thể nảy sinh sự cám dỗ chỉ phát triển các chương trình đáp ứng những mối quan tâm trước mắt. Chúng ta hãy giữ cho các khả năng dài hạn luôn rộng mở, cụ thể là tầm nhìn giáo dục rộng hơn cho phép học sinh tiếp xúc với nền văn học vĩ đại của thế giới, các lối suy tư triết học, truyền thống tín ngưỡng, âm nhạc hoặc nghệ thuật hoặc sân khấu, văn hóa thời trung cổ, kiến ​​thức và trí tuệ cổ đại, và nhiều thế giới quan khác nhau, cuối cùng có thể làm giàu cho toàn bộ con người và cộng đồng mà họ thuộc về. Những cộng đồng bị buộc phải rời đi, người nghèo và tất cả những ai không phải là đối tượng thường xuyên được các cơ sở giáo dục của chúng ta chú trọng thực sự xứng đáng có được nền giáo dục tốt nhất, nền giáo dục phát triển trí tuệ, trái tim và tinh thần thu hút con người đến với sự huyền nhiệm của tha nhân và của Đấng Hoàn Toàn Khác.

Đối với cha mẹ tị nạn, giáo dục thường là nguyện vọng cao nhất mà họ dành cho con cái mình, và trẻ em thường có động lực và thậm chí bị thúc đẩy phải học thật giỏi. Vì vậy, khi chúng ta hình dung ra các con đường giáo dục dành cho sinh viên di cư hoặc tị nạn, hãy để cha mẹ và cộng đồng được đưa vào chính thiết kế tiếp cận giáo dục. Nghiên cứu cho thấy cuộc khủng hoảng cô lập đang diễn ra ở các nước Bắc bán cầu, nhưng đang ngày càng lan rộng ra tới nhiều xã hội, cản trở sự tiến bộ của học sinh trong một chương trình giáo dục, dẫn đến tình trạng bỏ học. Ngược lại, “trẻ em và thanh thiếu niên có mối quan hệ tích cực với bạn bè, cha mẹ và giáo viên sẽ có kết quả học tập tốt hơn”. [3] Cốt lõi của việc học là một cộng đồng cung cấp sự thân mật nhất định giúp phá vỡ các khuôn mẫu cô lập do các thế lực khác trong xã hội áp đặt.

Học tập đòi hỏi sự tin tưởng. Người học cần có đủ sự gần gũi để hòa nhập với thời điểm hiện tại, mà không có sự lo lắng quá mức về tương lai bất định và những vết thương chưa lành trong quá khứ. Một thách thức của giáo dục người di cư và tị nạn là giáo dục diễn ra giữa những mối quan hệ xã hội bị tổn thương. Các chương trình giáo dục cần thiết kế các quy trình giáo dục tập trung vào hạ tầng xã hội, xây dựng và củng cố mối tương quan cộng đồng, bên trong cơ sở giáo dục đã có và ngoài phạm vi đó. Các cơ sở giáo dục của chúng ta cần trở thành trung tâm của sự đa dạng về văn hóa, ngôn ngữ và tôn giáo, nơi các mục tiêu giáo dục của cơ sở giúp học sinh và gia đình của họ bắt đầu xác định vị trí của chính mình, hy vọng và nguyện vọng của họ. Mục tiêu của giáo dục luôn mang tính cộng đồng, vì trong cộng đồng, chúng ta tìm thấy con đường cho ơn gọi sống độc đáo của riêng mình. “Ơn gọi không phải là một nghề nghiệp. Nó chắc chắn không phải là ‘công việc’ và càng không phải là ‘việc làm’.” Đúng hơn, đó là thứ “khuấy động bên trong, kêu gọi được lắng nghe, được tuân theo. Nó vẫy gọi chúng ta trở về nhà.”[4]

Giáo dục là con đường đến với cuộc sống, để tìm thấy ơn gọi, để xây dựng ngôi nhà ngay cả trong bối cảnh những tác động liên tục của tình trạng di dời cưỡng bức.

Bốn động từ mà Đức Giáo hoàng Phanxicô thường dùng khi nói về người di cư và người tị nạn – chào đón, bảo vệ, thúc đẩy, hội nhập – đều áp dụng cho các tổ chức giáo dục.[5] Mỗi tổ chức phải vận dụng các từ này theo thực tế địa phương của mình và phải tự hỏi liệu các động từ này có sống động hay không và theo cách nào. Tổ chức có thể tự hỏi những câu hỏi như sau:

  • Tổ chức của tôi có chào đón người di cư và người tị nạn không?
  • Có rõ ràng là họ được chào đón không?
  • Tổ chức của tôi có tạo điều kiện cho việc tiếp nhận họ hay khiến việc này trở nên cực kỳ khó khăn không?
  • Một khi đã tiếp nhận, những cấu trúc bảo vệ nào đảm bảo phẩm giá và sự an toàn của họ, bất kể tình trạng pháp lý?
  • Chúng ta có thừa nhận sự khác biệt và khẳng định họ là tốt và là món quà không?
  • Chúng ta có phát huy hết tiềm năng của họ trong các chiều kích văn hóa và tôn giáo đa dạng vốn là một phần trong tính nhân văn của họ không?

Giáo dục Công giáo phải làm cho việc đào tạo chất lượng có thể tiếp cận được với người tị nạn, người di cư cưỡng bức, và những người và cộng đồng phải di dời trong nước. Điều này sẽ giúp hoàn thành sứ mệnh của Giáo hội là thúc đẩy “sự phát triển toàn diện của con người cho toàn thể Dân Chúa, đảm bảo rằng không ai bị loại trừ”. [6] Như lời Chúa Giêsu, giáo dục dẫn đến sự sống và sự sống dồi dào (Ga 10,10), hoặc, theo cách diễn đạt của Dòng Tên:

Giáo dục sẽ góp phần vào việc giúp họ trở thành “những người nam và người nữ vì người khác”, những người hiến mình cho cuộc sống lớn lao hơn của người khác.

Một nền giáo dục lấy người khác làm trung tâm được áp dụng cho tất cả sinh viên, bao gồm cả sinh viên di cư và tị nạn. Trong bối cảnh một trường đại học Công giáo, Đức Giáo hoàng Phanxicô gần đây đã hỏi:

“Học cho ai? Cho chính mình? Để có thể chịu trách nhiệm với người khác? Chúng ta nên học để có thể giáo dục và phục vụ người khác, và phục vụ người khác một cách có năng lực và tự tin. Trước khi tự hỏi liệu việc học có hữu ích cho điều gì không, trước tiên chúng ta nên chắc chắn rằng nó hữu ích cho ai đó. Đây là một câu hỏi đẹp để một sinh viên đại học tự hỏi: tôi có thể phục vụ ai, chính tôi? Hay tôi có một trái tim rộng mở cho một loại hình phục vụ khác? Khi đó, bằng đại học sẽ chỉ ra khả năng phục vụ lợi ích chung. Tôi học cho chính mình, để làm việc, để trở nên hữu ích, vì lợi ích chung. Điều này đòi hỏi rất nhiều sự cân bằng.”[7]

Những lời phát biểu của Đức Giáo hoàng Phanxicô mời gọi chúng ta suy nghĩ sâu sắc hơn về giáo dục như một nền giáo dục dài hạn và lấy người khác làm trung tâm, vượt ra ngoài tiện ích tức thời rõ ràng của nó. Nó có thể thúc đẩy việc tìm kiếm chân lý và ý nghĩa cá nhân và siêu việt trong cuộc sống của mỗi người học. Ngoài việc cải thiện cuộc sống của cá nhân, giáo dục còn tác động đến toàn bộ gia đình và cộng đồng như một phần của cơ sở hạ tầng xã hội giáo dục.

Tôi nhớ đến Universidad Centroamericana ở El Salvador, nơi tôi đã dành thời gian ở đó sau khi những người anh em Dòng Tên của tôi bị giết vào năm 1989. Ban lãnh đạo đã sử dụng thuật ngữ “proyección social”, tiếp cận xã hội, để mô tả cách mà một trường đại học, với kiến ​​thức và chuyên môn của mình, sẽ tự thể hiện mình để tác động đến thực tế quốc gia, tình trạng thực sự của một xã hội với những bất công, cấu trúc loại trừ, bạo lực, tham nhũng và tất cả những gì không thúc đẩy tự do, đoàn kết và tôn trọng quyền của con người. Họ đã hình dung và làm việc hướng tới một cộng đồng đại học có trung tâm nằm ngoài chính nó.[8]

Tương tự như vậy, lời của Đức Giáo hoàng Phanxicô mời gọi sinh viên phân định và hiểu nền giáo dục của họ như sự chuẩn bị để phục vụ một nhân loại đang bị tổn thương, chạm vào những vết thương của lịch sử.[9] Chính thông qua một nền giáo dục lấy người khác làm trung tâm mà sinh viên có thể chống lại mô hình kỹ trị đang tìm cách thống trị thay vì giải phóng những người khác, những cấu trúc xã hội khác, cũng như đang cố thống trị thế giới đã được tạo ra.

Đức Giáo hoàng Phanxicô nhấn mạnh mối liên hệ, trong hành trình tìm kiếm chân lý và tự do của một trường đại học: “Đừng quên rằng việc học có ý nghĩa khi nó tìm kiếm chân lý. Khi tìm kiếm chân lý, chúng ta hiểu rằng chúng ta được tạo ra để tìm kiếm chân lý. Chân lý có nghĩa là phải được tìm thấy, vì nó hấp dẫn, dễ tiếp cận và hào phóng. Nhưng nếu chúng ta từ bỏ việc tìm kiếm chân lý, thì việc học sẽ trở thành một công cụ quyền lực, một cách để kiểm soát người khác; nó không còn phục vụ mà thống trị. Tôi phải thú nhận rằng tôi thấy buồn khi phát hiện ra một trường đại học chỉ đào tạo sinh viên để kiếm tiền hoặc giành quyền lực. Nó quá cá nhân chủ nghĩa, không có cộng đồng. Alma mater là một cộng đồng đại học giúp định hình xã hội, tạo ra tình anh em. Việc học sẽ không hữu ích nếu nó không bao gồm việc tìm kiếm chân lý mang tính cộng đồng. Nó không hữu ích. Nó thống trị. Trong khi chân lý giải thoát chúng ta (x. Ga 8,32).”[10]

Sự thật, theo nghĩa rộng nhất của nó, là phẩm chất của việc có mối quan hệ đúng đắn với thực tế: thực tế của chính mình và thực tế của người khác và thế giới. Bây giờ, khi nghĩ cụ thể đến những sinh viên bị di dời cưỡng bức, việc tìm kiếm sự thật là một trách nhiệm nặng nề, và cuối cùng là một hành trình giải phóng tác động đến toàn bộ cộng đồng giáo dục. Một cộng đồng sinh viên chắc chắn được làm phong phú nhờ sự hiện diện của những người di cư và người tị nạn, những người đan xen sự thật về thực tế của họ, về thế giới của họ, với cấu trúc rộng hơn của cộng đồng đại học. Cả hai đều được làm phong phú nhờ cuộc gặp gỡ giáo dục và đồng tìm kiếm sự thật chung.

Tuy nhiên, khi nói đến việc tiếp cận các cơ hội giáo dục, người di cư và người tị nạn phải đối mặt với một số trở ngại. Các quốc gia đang phải vật lộn với việc cung cấp giáo dục cho cư dân của mình có thể không có đủ nguồn lực và năng lực để cung cấp hỗ trợ cần thiết cho người di cư và người tị nạn. Ngoài ra, người tị nạn thường bị từ chối quyền tự do di chuyển và quyền tiếp cận giáo dục, đào tạo với giá phải chăng. Ngoài ra, những người đã được giáo dục tốt thấy rằng trình độ của họ vẫn không được công nhận.

Xem xét những thách thức này, mọi nỗ lực nhằm nâng cao giáo dục cho người tị nạn và người di cư nên bắt đầu bằng việc trực tiếp lắng nghe họ. Mục đích là đưa ra hướng dẫn thực tế mạnh mẽ cho nghiên cứu giáo dục, chính sách và hoạt động mục vụ. Theo quan điểm của Giáo Hội, điều quan trọng là kết hợp suy tư khoa học và thần học và các tổ chức giáo dục để thu hút Giáo hội địa phương khi xây dựng các chương trình. Một ví dụ là các khóa đào tạo cho các tác nhân mục vụ, những người sau đó có thể tham gia vào nhiều sáng kiến ​​khác nhau nhằm đồng hành cùng người tị nạn và người di cư.

Ngày nay, chúng ta thấy rằng khoảng cách giáo dục giữa người tị nạn và những người bạn đồng trang lứa trong cộng đồng chủ nhà có thể rất lớn, đặc biệt là ở các cấp học cao hơn. Tính đến năm 2023, chỉ có khoảng 7 phần trăm người tị nạn trên toàn thế giới có thể tiếp cận giáo dục và đào tạo sau trung học,[11] nhưng những cơ hội học tập và giáo dục này lại rất cần thiết cho sự thành công của họ. Cơ hội làm việc, kiếm sống và tự lập là những cách hiệu quả nhất để người tị nạn xây dựng lại cuộc sống của mình.[12] Giáo dục ở mọi cấp độ có thể mang đến cho trẻ em, thanh thiếu niên và thanh niên tị nạn cơ hội tham gia vào cộng đồng địa phương và thậm chí là một số sự hòa nhập ban đầu.

Theo báo cáo năm 2022 của Dịch vụ Tị nạn Dòng Tên, giáo dục sau trung học giúp tạo ra một cuộc sống bền vững không phụ thuộc vào viện trợ nhân đạo. Nó cho phép những người di cư và người tị nạn bị di dời cưỡng bức thiết lập sự độc lập về kinh tế và mức sống tốt hơn bất kể họ ở đâu hoặc họ phải di dời trong bao lâu, và nó cung cấp sự hòa nhập kinh tế xã hội tốt hơn trong cộng đồng chủ nhà của họ. Điều này đặc biệt quan trọng vì ba phần tư số người tị nạn (76 phần trăm) đã phải sống lưu vong trong ít nhất năm năm liên tiếp.[13]

Một đóng góp quan trọng và cụ thể mà các trường đại học Công giáo có thể thực hiện để trao quyền cho người tị nạn và người di cư và đáp ứng những thách thức đã nêu ở trên là sự công nhận lẫn nhau về bằng cấp học thuật. Các bằng cấp học thuật và chuyên môn của người tị nạn và người di cư thường cần được cập nhật và nâng cấp, và đây là các chương trình và khóa học mà các trường đại học Công giáo nên có thể cung cấp.

Để đạt được mục đích này, như Đức Thánh Cha đã nhận xét: “Các cách tiếp cận liên ngành, hợp tác quốc tế và chia sẻ tài nguyên là những yếu tố quan trọng có thể cho phép tính phổ quát chuyển thành các dự án chung và hiệu quả vì nhân loại, vì tất cả nam giới và phụ nữ, và môi trường mà họ sống và phát triển”. Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp tục nhắc nhở chúng ta rằng một trường đại học, về bản chất, có nghĩa là phổ quát nhưng vẫn dựa trên bối cảnh địa phương: “Với sự cởi mở phổ quát của mình (chính xác là một “universitas”), bạn có thể giúp trường đại học Công giáo trở thành nơi mà các giải pháp cho sự tiến bộ dân sự và văn hóa cho từng cá nhân và cho nhân loại, được đánh dấu bằng sự đoàn kết, được theo đuổi với sự kiên trì và tính chuyên nghiệp. Bạn cũng có thể xem xét những những nét riêng mà không mất đi tầm nhìn về những gì có giá trị chung hơn. Các vấn đề cũ và mới phải được nghiên cứu trong tính cụ thể và tính cấp thiết của chúng, nhưng luôn trong góc nhìn cá nhân và toàn cầu”.[14]

Giáo dục Công giáo phải có sẵn để phục vụ tất cả mọi người, bất kể nền tảng tôn giáo. Nhưng điều này để lại một câu hỏi quan trọng: Làm thế nào các trường học của chúng ta có thể đảm bảo sự hình thành tôn giáo và tinh thần mà những người di cư và tị nạn Công giáo xứng đáng được hưởng? Làm thế nào để cung cấp nó, nếu có thể, trong sự hợp tác với Giáo hội địa phương?

Trong ý cầu nguyện hàng tháng đầu tiên của Năm Thánh 2025,[15] Đức Thánh Cha Phanxicô đã yêu cầu chúng ta “cầu nguyện cho những người di cư, người tị nạn và những người bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, để quyền được giáo dục của họ, điều cần thiết để xây dựng một thế giới nhân văn hơn, luôn được tôn trọng”.

Tóm lại, những người và cộng đồng bị di dời cưỡng bức là những người tị nạn khỏi sự tuyệt vọng, nhưng phương châm của năm Đại lễ 2025 lại mời gọi mọi người trở thành “Những người hành hương của Hy vọng”. Chính giữa sự tuyệt vọng và hy vọng mà “những người di dời và bị nhổ tận gốc” bước đi. Mong rằng nền giáo dục Công giáo sẽ đồng hành cùng họ, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Vì hành trình vĩ đại của giáo dục là con đường dẫn đến sự sống.

Nguồn: https://www.laciviltacattolica.com/education-is-a-path-to-life/

Tác giả: Card. Michael Czerny, SJ

Chuyển ngữ: Phêrô Đặng Đình Tùng, S.J.

DOI: https://doi.org/10.32009/22072446.0425.7

[1]. Văn bản hiện tại được chuyển thể từ một bài đóng góp cho Hội nghị do Mạng lưới Giáo dục Người tị nạn và Di cư tổ chức, “Giáo dục Người tị nạn và Di cư”: Con đường cho Hy vọng, Sự hiểu biết và Hội nhập Có ý nghĩa, Đại học Giáo hoàng Urbaniana – Rome, ngày 7 tháng 11 năm 2024.

[2]. Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’, ngày 24 tháng 5 năm 2015, tại vatican.va

[3]. “Dịch bệnh cô đơn và cô lập của chúng ta: Tư vấn của Tổng giám đốc Y khoa Hoa Kỳ về tác động chữa lành của kết nối xã hội và cộng đồng”, 2023, 34.

[4]. J. P. Lederach, Trí tưởng tượng đạo đức, New York, Oxford Academic, 2005, 167.

[5]. Đức Phanxicô, Sứ điệp nhân Ngày Thế giới Di dân và Tị nạn lần thứ 104, ngày 14 tháng 1 năm 2018.

[6]. Phanxicô, Tông hiến Praedicate Evangelium, ngày 19 tháng 3 năm 2022.

[7]. Đức Phanxicô, Gặp gỡ các sinh viên đại học, Đại học Catholique de Louvain, ngày 28 tháng 9 năm 2024.

[8]. Cf. M. Czerny, “La università come coscienza critica”, trong F. Lazzari (ed.), 1989 L’eccidio de San Salvador. Quando l’Università è coscienza critica, Trieste, MGS Press, 2010, 108-110.

[9]. X. Đức Phanxicô, Diễn văn tại Đại học Gregorian, Rome, ngày 5 tháng 11 năm 2024.

[10]. Francis, Gặp gỡ sinh viên đại học, op. Cit.

[11]. So sánh Cơ quan Tị nạn Liên hợp quốc, Giáo dục người tị nạn: Năm năm kể từ khi ra mắt Chiến lược Giáo dục người tị nạn 2030, 2024.

[12]. Cf. JRS USA, Con đường phía trước: Xây dựng tương lai cho sinh viên tị nạn thông qua giáo dục sau trung học, 2022.

[13]. Cf. Ibid.

[14]. Đức Phanxicô, Diễn văn tại Hội nghị quốc tế dành cho các nhà lãnh đạo trường đại học Công giáo: “Những biên giới mới cho các nhà lãnh đạo trường đại học: Tương lai của sức khỏe và hệ sinh thái trường đại học”, Rome, ngày 4 tháng 11 năm 2019.

[15]. Video của Đức Thánh Cha trong tháng 1 được phân phối qua Mạng lưới cầu nguyện toàn cầu, ngày 2 tháng 1 năm 2025, https://www.youtube.com/watch?v=1LHzCLG4wLE

Nguồn: dongten.net

Bài Liên Quan

Bạn Muốn Giờ Phán Xét Của Mình Là Ơn...

Khi đến Firenze thuộc trung Ý, vào thăm viếng nhà thờ chánh toà Đức Maria của các...

[Suy Tư Cùng ĐGH] – Cộng Đoàn Giáo Xứ:...

Giáo hội được mời gọi trở thành một cộng đồng đón tiếp và chữa lành, nơi sự...

Phân Tích: Tầm Nhìn Thần Học Của Đức Giáo...

Đức Giáo hoàng Leo XIV ký Tông huấn đầu tiên của ngài, “Dilexi Te” (“Ta đã yêu...

Nóng Giận Theo Nhãn Quan Tâm Lý Học

Ngày nay, người ta thường đồng hóa con giận với hành vi bạo lực, từ đó, đã...

[Suy Tư Với Đức Giáo Hoàng] Tháng 11 –...

Trong những ngày tháng đầy biến động của thế giới hôm nay, nỗi đau thầm lặng mang...

Chết trong Đức Kitô để được sống lại với...

Cái chết là một thực tại khách quan mà ai cũng phải đối diện. Có người sợ...