Hai Thánh Nhân, Một Sứ Mệnh

Lời ca Nhập lễ mà Giáo Hội hát lên trong phụng vụ Thánh lễ hai Thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô hôm nay:

         “Đây là hai vị Tông Đồ đều anh dũng

Dâng máu đào xây Giáo Hội ngàn thu

Chén đắng Thầy trao, uống cạn chẳng từ

Chúa ưu đãi, nâng lên hàng tâm phúc”.

Hai con người, hai Thánh nhân, hai cuộc đời tuy khác biệt trên cả bình diện cội nguồn, cá tính vì được hấp thụ nền văn hoá và sự giáo dục khác nhau. Tuy không tương đồng về ơn gọi và sứ vụ, nhưng hai Thánh nhân lại đi chung một con đường, và cùng chung một lý tưởng. Các ngài đều phải lội ngược dòng, ngỏ hầu làm lại cuộc đời.

Cụ thể, Thánh Phê-rô là người vùng Bét-sai-đa, miền Ga-li-lê-a, xuất thân từ môi trường bình dân, ít học, làm nghề ngư phủ (x. Mt 4,18). Trong khi đó, dù gốc Do Thái, nhưng Thánh Phao-lô được sinh trưởng tại Tar-sô (x. Cv 9,11), mang quốc tịch Rô-ma (x. Cv 16,37), được học hành đến nơi đến chốn với danh sư biệt phái Ga-ma-li-el (x. Cv 5,34; 22,3). Nếu Thánh Phê-rô luôn trung thành với lề luật và gắn bó với môi trường xã hội Do Thái như những người mộ đạo đương thời (như việc giữ luật cắt bì, coi trọng quy định vệ sinh về đồ ăn thức uống… (x. Cv 10,14), thì Thánh Phao-lô, mặc dù nhiệt thành với luật Mô-sê, nhưng nhờ được hấp thụ nền văn hóa Hy Lạp, lại sinh trưởng nơi môi trường hải ngoại, nên ngài có cái nhìn thông thoáng và cởi mở hơn đối với thế giới lương dân (dân ngoại = không phải người Do Thái).

Hơn thế, trên bình diện khác, Thánh Phê-rô là một trong những môn đệ đầu tiên đi theo Chúa, đã dấn thân với tất cả lòng nhiệt thành và bộc trực của mình: “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Một lời tuyên tín thâm sâu nhưng nhờ ơn mặc khải của Thiên Chúa, và Đức Giê-su đã khen ngợi, đặt Thánh nhân làm đá tảng, mà trên đó Ngài xây Giáo Hội của Ngài (x. Mt 16,18). Hết thảy các sự kiện quan trọng xảy ra trong ba năm rong rủi với Thầy Giê-su, nào là định ngăn cản Thầy Chí Thánh thực thi chương trình cứu độ. Chuyện trên Biển hồ giữa đêm khuya khi còn hướng về Đức Giê-su, Phê-rô đã bước những bước an toàn trên sóng nước, nhưng bất thình lình xém bị chìm vì sự yếu đuối của mình. Thê thảm nhất là chuyện xảy ra trong đêm tiệc ly, Phê-rô bộc trực khẳng định: “Dù cho mọi người vấp ngã, nhưng con thì không!…Dù phải chết với Thầy, con sẽ không chối Thầy” (x. Mt 26,33.35). Thế nhưng, ngay chính đêm định mệnh ấy, Phê-rô đã run sợ chối Thầy ba lần chỉ vì lời nói của một tên đầy tớ gái (x. Mt 26,70-74). May mắn thay, khi Phê-rô vẫn còn lẽo đẽo theo Thầy để cuối cùng nhận được ánh mắt nhân từ tha thứ, rồi cũng tại Biển hồ Ti-bê-ri-a, lúc đối diện với Chúa Phục sinh, Phê-rô thay vì tự tin nơi bản thân, thì giờ đây chỉ biết phó thác nơi sự khôn ngoan của chính Chúa: “Thầy biết hết mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,17). ‘Tảng đá’ Phê-rô đã vỡ vụn hôm nào, tưởng đâu bị loại bỏ; ngờ đâu Đức Ki-tô đã hàn gắn lại, ân cần trao cho Thánh nhân sứ mệnh chăn dắt đoàn chiên của Ngài.

Mặc khác, ơn gọi của Thánh Phao-lô không hề giản đơn. Trước khi trở thành Tông đồ nhiệt thành và đặc biệt Tông đồ cho dân ngoại, thì Phao-lô là một Pha-ri-siêu (Biệt phái) cương quyết loại trừ Ki-tô giáo với tất cả tâm huyết, nhiệt tình và suy nghĩ chín chắn của mình. Với niềm tin cắm rễ vững chắc trong truyền thống lề luật Mô-sê, làm sao Phao-lô lại chấp nhận một người mang danh Giê-su Na-da-rét nào đó vi phạm luật ngày Sa-bát? Hơn nữa, làm sao chịu được những luận điệu tuyên truyền của đám dân chài Ga-li-lê-a, đồ đệ của Đấng Ki-tô cho rằng Ngài đã sống lại từ cõi chết và đang sống hiển vinh! Phao-lô thản nhiên đồng tình trong vụ ném đá giết chết Stê-pha-nô (x. Cv 8,58; 9,1), còn hung hăng đi truy lùng, bắt bớ các Ki-tô hữu hầu “phá hoại Hội Thánh” (x. Cv 9,3). Tuy nhiên, một luồng ánh sáng diệu kỳ đã xoá tan sự mù loà nơi xác thịt trần tục, mở ra cho Phao-lô nguồn sáng mới. Một Pha-ri-siêu cực đoan bài xích Ki-tô giáo hết mực, thì qua biến cố ngã ngựa trên đường đi Đa-mas bắt đạo, giờ đây đã trở thành người loan báo Chúa Ki-tô như một “vận động viên lao về phía trước” (x. Pl 3,13), như một chiến sĩ “chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa” (2Tm 4,7), mà chẳng trở lực nào, dù “gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo, tù đày, đòn roi, dù sống hay chết, cũng không thể tách Phao-lô ra khỏi lòng mến của Đức Ki-tô” (x. Rm 8,35). Và cuộc sống của Thánh nhân từ đó xoay quanh chân lý nền tảng: “Tôi sống, nhưng không còn là tôi, mà chính Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20).

Quả thật, hai Thánh nhân nhưng một sứ mệnh. Nhờ lời chuyển cầu của hai Thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô, chúng ta cùng noi gương các ngài sống chứng tá cho Chúa Ki-tô hằng ngày qua việc cộng tác xây dựng cộng đoàn, và xây dựng Giáo hội. Amen!

Lm. Xuân Hy Vọng

******

Tóm Tắt Một Số Lời Nói Và Giáo Huấn Của

2 Thánh Tông Đồ Phê-rô Và Phao-lô

 

I. Lời nói và giáo huấn của Thánh Phê-rô

Thánh Phê-rô (Si-mon, được Chúa Giê-su đặt tên là Phê-rô, nghĩa là “Tảng đá”) là một trong những môn đệ đầu tiên của Chúa Giê-su và được xem là “trụ cột” của Giáo hội (x. Mt 16,18). Các lời nói và giáo huấn của ngài xuất hiện chủ yếu trong các sách Tin Mừng (Mát-thêu, Mác-cô, Lu-ca, Gio-an), Công vụ Tông đồ, và hai thư của Thánh Phê-rô (1 Pr và 2 Pr).

  1. Trong các sách Tin Mừng
  • Tuyên xưng đức tin vào Chúa Giê-su“Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).
    • Đây là lời tuyên xưng nổi bật nhất của Phê-rô khi Chúa Giê-su hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mt 16,15). Lời này thể hiện đức tin mạnh mẽ của Phê-rô, và Chúa Giê-su đáp lại bằng cách trao cho ngài vai trò lãnh đạo Giáo hội: “Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18).
  • Lòng trung thành và sự yếu đuối“Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng: chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).
    • Khi nhiều môn đệ bỏ Chúa Giê-su sau bài giảng về Bánh Hằng Sống, Phê-rô đại diện các tông đồ bày tỏ lòng trung thành.
  • Sự ăn năn và tình yêu dành cho Chúa“Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,15-17).
    • Sau khi chối Chúa ba lần, Phê-rô được Chúa Giê-su hỏi ba lần: “Si-mon, con ông Gio-an, con có yêu mến Thầy không?” Phê-rô trả lời với lòng khiêm tốn và sám hối, được giao phó sứ mạng “chăn dắt chiên của Thầy.”
  • Nhận ra sự yếu đuối của mình“Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (Lc 5,8)
    • Sau mẻ cá lạ lùng, Phê-rô nhận ra quyền năng của Chúa Giê-su và sự bất xứng của bản thân.

2. Trong sách Công vụ Tông đồ

  • Rao giảng về Chúa Giê-su Phục Sinh“Vậy toàn thể nhà Ít-ra-en phải biết chắc rằng: Đức Giê-su mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Ngài làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô” (Cv 2,36).
    • Trong bài giảng vào ngày Lễ Ngũ Tuần, Phê-rô công bố Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế, dẫn đến việc 3.000 người trở lại (x. Cv 2,41).
  • Can đảm làm chứng trước Công nghị Do Thái“Xin hỏi: nghe lời các ông hơn là nghe lời Thiên Chúa, điều có phải lẽ trước mặt Thiên Chúa không? Các ông thử xét xem! Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra” (Cv 4,19-20).
    • Khi bị đe dọa không được giảng dạy về Chúa Giê-su, Phê–rô cùng Gioan tuyên bố lòng trung thành với sứ mạng.
  • Chữa lành nhân danh Chúa Giê-su“Vàng bạc thì tôi không có, nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giê-su Ki-tô người Na-da-rét, anh đứng dậy mà đi!” (Cv 3,6)
    • Phê-rô chữa lành người què tại Cửa Đẹp của Đền Thờ, nhấn mạnh quyền năng của Chúa Giê-su.

3. Trong hai thư của Thánh Phê-rô

  • Kêu gọi sống thánh thiện“Như Đấng kêu gọi anh em là Đấng Thánh, anh em cũng phải thánh thiện trong cách ăn nết ở, vì có lời Kinh Thánh chép: Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh” (1 Pr 1,15-16).
    • Phê-rô khuyến khích các Ki-tô hữu sống đời sống thánh thiện, noi gương Thiên Chúa.
  • Sẵn sàng làm chứng cho niềm hy vọng“Đức Ki-tô là Đấng Thánh, hãy tôn Ngài làm Chúa ngự trị trong lòng anh em. Hãy luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1 Pr 3,15).
    • Lời dạy này nhấn mạnh việc sống đức tin cách công khai và sẵn sàng giải thích về niềm tin.
  • Chịu đau khổ vì đức tin:“Vậy, chính Đức Ki-tô đã chịu đau khổ trong thân xác, nên anh em cũng phải lấy tư tưởng này làm khí giới: ai chịu đau khổ trong thể xác thì đoạn tuyệt với tội lỗi, để bao lâu còn sống trong thân xác, người ấy không theo theo những đam mê của con người nữa, mà theo ý muốn của Thiên Chúa” (1 Pr 4,1-2).

II. Lời nói và giáo huấn của Thánh Phao-lô

Thánh Phao-lô, nguyên là Sao-lô, một người Pha-ri-siêu bách hại Giáo hội, được Chúa Giê-su kêu gọi trên đường Đa-mát (Cv 9,1-18). Ngài trở thành “Tông đồ của dân ngoại” và là tác giả của 13 thư trong Tân Ước. Các thư của ngài chứa đựng nhiều lời dạy sâu sắc về đức tin, ơn cứu độ, và đời sống Ki-tô hữu.

  1. Trong sách Công vụ Tông đồ
  • Gặp gỡ Chúa Giê-su Phục Sinh trên đường Đa-mát“Sau-lô, Sau-lô, sao ngươi bắt bớ Ta?”…“Thưa Ngài, Ngài là ai?”…“Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 9,4-5).
    • Đây là lời đối thoại giữa Phao-lô và Chúa Giê-su Phục Sinh, đánh dấu sự hoán cải của ngài. Sau đó, Phao-lô trở thành nhà truyền giáo nhiệt thành.
  • Rao giảng Tin Mừng cách tự do“Ông rao giảng Nước Thiên Chúa và dạy về Chúa Giê-su Ki-tô một cách rất mạnh dạn, không gặp ngăn trở nào” (Cv 28,31).
    • Cuối sách Công vụ, Phao-lô được mô tả là không ngừng rao giảng Tin Mừng ngay cả khi bị giam cầm.

2. Trong các thư của Thánh Phao-lô

Thánh Phao-lô viết nhiều thư gửi các cộng đoàn Ki-tô hữu, chứa đựng giáo huấn về thần học, đạo đức, và đời sống thiêng liêng. Dưới đây là một số giáo huấn nổi bật:

  • Đức Ki-tô sống trong tôi“Tôi sống, nhưng không còn là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống trong xác phàm, là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,20).
    • Đây là tuyên ngôn cốt lõi về đời sống thiêng liêng của Phao-lô, nhấn mạnh sự kết hợp với Chúa Giê-su.
  • Truyền giáo là sứ mạng cấp bách“Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi? Như có lời chép: Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo Tin Mừng!” (Rm 10,14-15)
    • Phao-lô nhấn mạnh tầm quan trọng của việc truyền giáo để đưa mọi người đến với đức tin.
  • Tình yêu là cao trọng hơn cả“Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr 13,13).
    • Trong “bài ca đức mến,” Phao-lô ca ngợi tình yêu là nhân đức cao trọng hơn cả, vượt trên mọi ân sủng khác.
  • Sống vì vinh danh Thiên Chúa“Vậy, dù ăn, dù uống, hay bất cứ làm việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10,31).
    • Lời dạy này khuyến khích các Ki-tô hữu sống mọi khía cạnh của đời sống để tôn vinh Chúa.
  • Sức mạnh trong yếu đuối“Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10).
    • Phao-lô nhận ra rằng sự yếu đuối của con người là cơ hội để quyền năng của Chúa tỏ lộ.
  • Kiên trì trong đức tin“Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính…” (2 Tm 4,7-8).
    • Gần cuối đời, Phao-lô nhìn lại hành trình đức tin và sứ mạng của mình với lòng xác tín.
  • Đức tin và ơn cứu độ“Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ” (Rm 10,10).
    • Phao-lô giải thích mối liên hệ giữa đức tin nội tâm và lời tuyên xưng công khai.
  • Sống thánh thiện:“Thật vậy, Thiên Chúa đã không kêu gọi chúng ta sống ô uế, nhưng sống thánh thiện. Vậy ai khinh thường những lời dạy trên, thì không phải khinh thường một người phàm, nhưng khinh thường Thiên Chúa; Đấng hằng ban cho anh em Thánh Thần của Ngài” (1 Tx 4,7-8).
    • Phao-lô kêu gọi các tín hữu sống đời sống trong sạch và thánh thiện.

III. Kết luận sơ bộ: Hai con người, hai Thánh nhân, hai hoàn cảnh sống, hai môi trường giáo dục, hai tính cách, v.v…khác nhau, nhưng cùng chung một lý tưởng, một con đường, một sứ mệnh làm chứng cho Thầy Chí Thánh Giê-su trong suốt cuộc đời, cũng như qua các lời giáo huấn của các ngài. Lạy hai Thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô, xin cầu cho chúng con!

Lm. Xuân Hy Vọng

************

Giản Lược Một Số Điểm Tương Đồng Và Khác Biệt Giữa

2 Thánh Tông Đồ Phê-rô & Phao-lô (dựa Trên Kinh Thánh Tân Ước)

  1. Điểm tương đồng
  • Đều là Tông đồ được Chúa Giê-su chọn và sai đi:
    • Cả Phê-rô và Phao-lô đều được Chúa Giê-su kêu gọi để trở thành những người rao giảng Tin Mừng. Phê-rô được gọi trực tiếp khi đang đánh cá (Mt 4,18-20), còn Phao-lô được gọi qua một thị kiến trên đường đi Đa-mát (Cv 9,3-6).
    • Cả hai đều đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng Giáo hội sơ khai.
  • Có quá khứ tội lỗi nhưng được Chúa tha thứ và biến đổi:
    • Phê-rô đã chối Chúa ba lần trước khi Chúa chịu chết (Lc 22,54-62), nhưng được Chúa tha thứ và giao phó nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên (Ga 21,15-17).
    • Phao-lô từng là người bách hại Giáo hội (Cv 8,1-3), nhưng được Chúa biến đổi thành “khí cụ được chọn” (Cv 9,15).
  • Đều chịu tử đạo vì đức tin:
    • Theo truyền thống Công giáo, cả hai đều chịu tử đạo tại Rô-ma dưới thời hoàng đế Nê-rô. Phê-rô bị đóng đinh ngược trên thập giá (khoảng năm 64-67), còn Phao-lô bị chém đầu vì là công dân Rô-ma.
    • Cả hai đều trung thành với Chúa đến cùng, như Phao-lô viết: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững đức tin” (2 Tm 4,7).
  • Đều có lòng nhiệt thành truyền giáo:
    • Phê-rô rao giảng Tin Mừng cho người Do Thái (Cv 2,14-41) và là người đầu tiên rửa tội cho một người ngoại Cornelius (x. Cv 10).
    • Phao-lô được gọi là “Tông đồ dân ngoại” (Gl 2,7-8), đi khắp vùng Tiểu Á và Âu châu để truyền giáo (Cv 13-28).
  • Đều viết hoặc đóng góp vào bộ sách Tân Ước:
    • Phê-rô được coi là tác giả của hai thư (1 Pr và 2 Pr), nhấn mạnh về đời sống đức tin và hy vọng.
    • Phao-lô viết nhiều thư (như Rô-ma, 1&2 Cô-rin-tô, Ga-lát, Ê-phê-sô, Phi-líp-phê, Cô-lô-sê, 1&2 Thê-xa-lô-ni-ca, 1&2 Ti-mô-thê, Ti-tô, Phi-lê-môn), đóng góp lớn vào thần học Ki-tô giáo.

II. Điểm khác biệt

  • Nguồn gốc và bối cảnh ban đầu:
    • Phê-rô: ngư dân bình dân, ít học, tên là Si-môn, đến từ Ga-li-lê-a (x. Mt 4,18). Ngài có cuộc sống giản dị trước khi được Chúa gọi.
    • Phao-lô: người Do Thái thuộc phái Pha-ri-sêu, tên là Sau-lô, có học thức cao, thông thạo luật Mô-sê và là công dân Rô-ma (x. Cv 22,3; 23,6). Ngài từng là người chống đối Ki-tô giáo.
  • Thời điểm và cách thức được kêu gọi:
    • Phê-rô: Được Chúa Giê-su gọi trực tiếp khi đang làm việc: “Hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người” (Mt 4,18-20). Ngài đi theo Chúa từ đầu sứ vụ công khai.
    • Phao-lô: Được gọi sau khi Chúa phục sinh, qua một thị kiến bất ngờ trên đường Đa-mát (x. Cv 9,3-6). Ngài không gặp Chúa Giê-su trong cuộc đời trần thế.
  • Vai trò trong Giáo hội:
    • Phê-rô: Được Chúa Giê-su trao quyền lãnh đạo Giáo hội, gọi là “đá tảng”: “Con là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16,18). Ngài là Tông đồ Cả và đóng vai trò quan trọng tại Giê-ru-sa-lem.
    • Phao-lô: Không thuộc nhóm Mười Hai Tông đồ, nhưng là “Tông đồ dân ngoại” (Rm 11,13). Ngài tập trung vào việc truyền giáo cho các dân tộc ngoài Do Thái và phát triển thần học về ơn cứu độ.
  • Phong cách truyền giáo:
    • Phê-rô: Rao giảng đơn sơ, trực tiếp, tập trung vào các phép lạ và lời chứng về Chúa Giê-su (x. Cv 3,1-10; 4,8-12). Ngài chủ yếu làm việc với người Do Thái trước khi mở rộng sang dân ngoại.
    • Phao-lô: Có phong cách trí thức, sử dụng lập luận thần học sâu sắc và thích nghi với văn hóa địa phương (x. Cv 17,22-31 tại A-thê-na). Ngài viết nhiều thư để hướng dẫn các cộng đoàn.
  • Tính cách và thử thách:
    • Phê-rô: Tính tình bộc trực, đôi khi nóng nảy và yếu đuối (như chối Chúa hay bị Chúa quở trách vì thiếu đức tin – Mt 14,31). Tuy nhiên, ông thể hiện lòng khiêm tốn khi nhận lỗi (x. Lc 22,62).
    • Phao-lô: Tự tin, kiên định, nhưng cũng khiêm tốn thừa nhận yếu đuối của mình: “Tôi rất vui mừng khoe mình về những yếu đuối của tôi” (2 Cr 12,7-9). Ngài đối mặt với nhiều thử thách như tù đày, đánh đập, v.v… (x. 2 Cr 11,23-27).
  • Mối tương quan với nhau:
    • Cả hai từng có bất đồng về việc áp dụng luật Do Thái cho dân ngoại (x. Gl 2,11-14, Phao-lô trách Phê-rô vì thái độ không nhất quán tại An-ti-ô-ki-a). Tuy nhiên, họ vẫn hợp tác trong sứ vụ chung và tôn trọng lẫn nhau (x. 2 Pr 3,15-16, Phê-rô gọi các thư của Phao-lô là “theo ơn khôn ngoan Thiên Chúa đã ban cho ông”).

III. Ý nghĩa thần học và phụng vụ

  • Phê-rô tượng trưng cho quyền lãnh đạo và sự hiệp nhất trong Giáo hội, là nền tảng của chức vụ Giáo hoàng.
  • Phao-lô đại diện cho sứ vụ truyền giáo và thần học, mở rộng Tin Mừng đến muôn dân.
  • Giáo hội Công giáo mừng lễ hai Thánh Phê-rô và Phao-lô cùng ngày (29/6), nhấn mạnh sự bổ sung lẫn nhau trong sứ vụ xây dựng Giáo hội.

Tóm tắt bảng so sánh giản lược

Tiêu chí

Phê-rô

Phao-lô

Nguồn gốc

Ngư dân, ít học, Galilê (Mt 4,18)

Pha-ri-sêu, học thức, công dân Rô-ma (Cv 22,3)

Cách gọi

Gọi trực tiếp khi Chúa còn tại thế (Mt 4,18-20)

Gọi qua thị kiến sau phục sinh (Cv 9,3-6)

Vai trò

Thủ lãnh Tông đồ, “đá tảng” (Mt 16,18)

Tông đồ dân ngoại (Rm 11,13)

Đối tượng truyền giáo

Chủ yếu người Do Thái, sau đó mở rộng (Cv 10)

Chủ yếu dân ngoại (Gl 2,7-8)

Phong cách

Đơn sơ, trực tiếp, phép lạ

(Cv 3,1-10)

Trí thức, lập luận, thư tín

(Cv 17,22-31)

Tác phẩm

1 Pr, 2 Pr

Nhiều thư (Rô-ma, Cô-rin-tô, Ga-lát, v.v.)

Tử đạo

Đóng đinh ngược tại Rô-ma

Chém đầu tại Rô-ma

Lm. Xuân Hy Vọng

Nguồn: thanhlinh.net