Phaolô và Antioch-Nơi Khai Sinh Kitô Giáo

Bernard Nguyên-Đăng, J.D.

Lời vào…

Hơn hai ngàn năm qua, người Kitô hữu trên toàn thế giới nghe nhiều, đọc nhiều và tưởng chừng như hiểu biết rộng, am tường sâu, thông suốt về cội nguồn, cái nôi của Kitô giáo. Phải chăng, cái nôi của Kitô giáo phát sinh từ miền đất Galileo, Jerusalem; hoặc nói rộng ra, cội nguồn của Kitô giáo khai sinh từ miền đất Palestine, nay thuộc về Do Thái?

Có nhiều lập luận, và chứng minh được rằng, miền “đất thánh thứ hai” (second holyland) của Kitô giáo chính là miền đất Tiểu Á (Asia Minor), thuộc về đế quốc La Mã, nay, thuộc về Thổ Nhỉ Kỳ (Turkiye), và chính cái tên, cái nôi của Kitô giáo cũng đã phát sinh từ đây—Antioch.

Antioch, một thành phố cực tây của Syria, nay thuộc về Thổ Nhĩ Kỳ, có tên Antakya, tỉnh Hatay, nơi quy tụ các tông đồ, có cả Phêrô, rao giảng tin mừng và thành lập nhóm tín hữu mới. Chính nơi đây, tên Kitô giáo (Christianity), danh xưng được chọn cho cộng đoàn tin theo đức Giêsu, chưa thể gọi là giáo hội. Sau khi số tín hữu đông lên, Phêrô trở thành thủ lãnh đầu tiên với phẩm trật Giám Mục tiên khởi, và hiểu một cách khác, chính Phêrô đã mặc nhiên trở thành giáo chủ, giáo hoàng đầu tiên của giáo hội Kitô giáo tại đây, không phải tại Jerusalem hoặc Rôma/La Mã (Italia).

Sau “Hành Trình Theo Dấu Chân Phaolô” từ Hy-Lạp đến Roma, nhưng chưa đặt chấn đến nơi chôn nhau cắt rốn của Phaolô, chưa rong ruổi trên thành phố cổ Antioch/Antakya, nơi khai sinh của Kitô giáo, không thể trọn giấc mơ chạm sát vào con người lịch sử của Phaolô, các tông đồ, và đặc biệt là đức Giêsu và Mẹ Người, đức Maria. Do đó, nơi đây ghi tóm gọn lại hành trình “Tìm Về Cội Nguồn Kitô Giáo Theo Dấu Chân Phaolô” tại Thổ Nhĩ Kỳ—qua kiến thức, kinh nghiệm sống đạo, nỗi khát khao đi tìm chân lý và đức tin cho riêng mình.

Chim có tổ, người có tông, có cội nguồn. Như người Do Thái, sau bao nhiêu ngàn năm tản mác khắp thế giới, họ vẫn muốn quay về lại miền đất của tổ tiên. Và người Việt hải ngoại cũng thế, có người xa quê hương gần, hoặc hơn một nửa thế kỷ, nhưng đau đáu mãi trong lòng muốn quay về lại miền đất của cha ông. Người Kitô giáo, không mấy ai biết rõ về cội nguồn Kitô giáo, dù cho phương tiện truyền thông có ngay trong lòng bàn tay. Đấy là lý do các bài viết nầy được hình thành, viết ra và chia sẻ với tất cả các bạn, không phân biệt tôn giáo, đức tin, giai cấp, truyền thống và kinh nghiệm sống đạo.

Chuổi bài viết về Phaolô, cội nguồn Kitô giáo và hành trình theo dấu chân Phaolô sẽ được lần lượt trình làng, không phải là những pho tín lý, thần học, hoặn suy tư cao siêu về con người thần học của Phaolô; nhưng, chỉ mong là một chút hàn huyên, tâm tình, chia sẻ—trong tiếng Anh gọi là “Storytelling”, hiểu nôm na như là thuật chuyện, kể truyện. Mời các bạn cùng song hành với người viết qua từng vùng miền, từng địa danh, từng con đường, từng nơi chốn, Phaolô đã đi, đã đến, đã sống, đã rao giảng tin mừng, và rồi, dâng hiến toàn thân, tánh mạng vì đức tin vững chắc của ông tại Roma.

Việc tìm hiểu liệu hai thánh Phaolô và Phêrô có mặt tại Antioch khi danh xưng Kitô giáo được công bố lần đầu tiên, cũng như sự hiện diện của các thánh tông đồ và đặc biệt là đức Maria, là một chủ đề phức tạp trong lịch sử Kitô giáo.

Hành trình đến nơi khai sinh của Kitô giáo-Antakya, tỉnh Hatay (Antioch-Syria thuở xưa)

  • Gặp cô bé tại bến xe

Chờ lâu tại bến xe, không biết mình chờ có đúng nơi chăng, sao không thấy ai hết. Một cô, trạc 20-25 tuổi đến ngồi gần, mình hỏi (bằng iPhone phiên dịch), “Cô đi Antakya, Hatay?” Cô ta đáp (cũng bằng iPhone phiên dịch): “Vâng. Hoang tàn hết rồi!” Mặt cô buồn rõ nét! Không thốt thêm một lời gì. Mình biết hôm tháng Hai, 2023, một trận động đất với tỷ lệ 8.00 (theo biểu đồ….), nhưng không theo dõi nhiều, nên không hề biết Antakya bị đến cỡ nào. Lên xe, mỗi người ngồi một nơi, đã vậy, truyền thống xe đường dài bên Thổ Nhĩ Kỳ (Hồi giáo chiếm gần 98%) không bán vé cho hai người khác phái, xa lạ, ngồi bên cạnh nhau, nên mất cơ hội hỏi han thêm nhiều.

Đường từ tỉnh lỵ Adana đi về Antakya (Antioch), hướng đông, khoảng hơn 40 kilomet, hầu hết là núi đồi, hai bên, lắm nơi, chỉ băng qua dọc chân núi. Không biết hai ngàn năm trước các tông đồ di chuyển về phương tây để truyền đạo phải đi bằng cách nào, nếu không chỉ bằng đường biển, tàu thuyền. Đã vậy, thuở ấy, không ai định cư trên tuyến đường, vì không có đường sá rộng rãi và an toàn như ngày nay; thêm vào đó, ắt hẳn cây cối um tùm, hoang vu, không dễ gì đi bằng lừa hay ngựa.

  • Bác tài xế Taxi

Đến bến, toạ lạc bên ngoài phố cổ, nên phải tìm xe đến nhà thờ (hang) kính thánh Phêrô, được biết bởi dân địa phương: “Saint Pierre Church”. Tìm xe bus, không thấy trạm xe nào. Hỏi chủ quán, anh ta nói, chỉ đến đó bằng taxi thôi. Ngay góc ngã tư, thấy một xe taxi, có bác tài già đang dùng điện thoại. Mình hỏi, bác đồng ý đi. Mặc cả giá, bác đồng ý, đi và về lại bến xe, 400 lira. Đường đi hoàn toàn gập gềnh, đất bụi, nhà cửa đổ nát, như cảnh tan nát sau giai đoạn chiến tranh tàn phá.  Đến nơi, không một bóng người lai vãng. Mình gõ cửa, một người đàn ông bước ra, cho biết nhà thờ đóng cửa. Mình năn nỉ, anh ta gọi người lính đang canh gác bên trong. Mình lại năn nỉ, “Anh ơi, tôi lặn lội hàng bao nhiêu ngàn dặm đến đây, anh cho tôi xin một phút thôi, chỉ được chụp vài tấm hình”, anh ta dứt khoát từ chối. Hỏi ra, mới biết, nhà thờ đóng của từ thời Covid-19.

Thất vọng, nhưng không bỏ cuộc. Mình leo lên dốc núi, nhìn vào trong mấy hang toại đạo, có một tảng đá khá lớn có tạc hình đức Maria, nhưng khuôn mặt đã bị phá vỡ.  Từ trên đồi, nhìn xuống bên dưới phố Antakya, hoang tàn, đổ nát gần hết, nhiều nơi đã hoàn toàn san bằng. Chạy ngang qua “Khách Sạn-Viện Bảo Tàng-Hotel Museum”*—bên dưới, khai quật lên, cả một di tích của thành phố cổ, khoảng 2000-2500 năm trước, cũng bị đóng của vì Covid.

Mình đề nghị bác tài xế đưa đi ăn một nơi nào đó mang tính chất thuần văn hoá, truyền thống ẩm thực của người địa phương. Bác đưa đến một nhà hàng khá khang trang, duy nhất còn tồn tại sau vụ động đất. Bác gọi các món ăn rất tiêu biểu của người bản xứ; tất nhiên, kèm theo chai Yaourt nước (Kefir/Ayran)*, và trà, thức uống dường như là một văn hoá hiếu khách và đặc trưng toàn diện cho cả nước. Sau bữa ăn, bác mời món “tráng miệng”, bác nói, “Anh thưởng thức nhé, đây là đặc sản của nơi nầy, không tìm ra ở bất cứ nơi nào!” Quả thật, món mứt trái cây, ngon thật.

Ăn xong, bác tài lái xe đưa mình thăm phố cổ, bác chỉ hai bên, hoàn toàn đổ nát. Dừng lại một nơi, có xe cần cẩu và lưới rào ngăn, bác thuyết phục họ cho mình vào chụp hình. Bác chỉ: “Đây, nhà thờ công giáo, sát bên cạnh, đền thờ hồi giáo.” Một vị giáo sĩ Hồi giáo (Imam) ra chào, ông nói, “Chỉ có nơi nầy, các tôn giáo mới tồn tại bên nhau.” Ngôi nhà thờ cổ, không biết đã bao nhiêu ngàn năm tuổi, nhưng chỉ còn một đống gạch vụn chồng chất lên nhau, chỉ nhận diện ra khung cửa trước nhà thờ, dày gần một mét. Bác tiếp tục đưa qua những con đường cổ, rất cổ, có thể từ thời trước các tông đồ đến giảng đạo.  Bác dừng lại, ra khỏi xe, bác nói: “Đây, nhà thờ công giáo, kia, nhà thờ chính thống giáo, đó, nhà thờ tin lành.” Mình mải mê chụp hình, quay video; chợt, có một người lái xe đến, bác tài và người đó trao đổi với nhau. Mình tiến lại, anh ta giới thiệu, là một nhiếp ảnh gia, sinh ra và lớn lên tại đây. Anh mở máy, cho xem hình ảnh của Antakya thời vàng son, huy hoàng trước vụ động đất. Anh chỉ, so sánh đường phố Antakya rực rỡ về đêm, nhộn nhịp người và sinh hoạt đầy sức sống, và chỉ từng ngôi nhà đã sập, đổ nát và những đống gạch vụn, không thể nào mường tượng ra không gian của ngày xưa, nỗi buồn sâu thăm không dấu được trên khuôn mặt người trai trẻ đầy nhựa sống.[*]

Trên đường đưa mình trở lại bến xe, đi xuyên qua khu nhà của bác tài, nay đã san bằng phẳng, chung quanh không gì ngoài đổ nát, mình nghe đâu đấy tiếng khóc than của hàng vạn vạn người (50,000), đủ mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, đã đột nhiên bị chôn vùi dưới bao nhiêu toà, căn nhà sập chồng chất lên nhau. Bác tài lặng yên. Chợt có điện thoại gọi, bác trả lời, rồi đưa cho mình. Đầu dây bên kia… “Thưa anh, tôi là con rể của bác tài, tôi là giáo viên, đang dạy ở nơi xa; Ba tôi muốn biết, anh có hài lòng về cung cách phục vụ, dịch vụ đưa tiếp anh trong chuyến viếng thăm quê hương chúng tôi không?” Nghe xong, mình chợt thấy cảm động. Ước gì những người sống bằng những nghề phục vụ xã hội, du khách trên quê hương của chúng ta luôn có một tâm thức, thái độ và cung cách phục vụ như bác tài nầy.

Thoạt đầu, giữa bác tài và mình nào có biết, nào có thoả thuận đưa mình đi khắp nơi, rồi cùng bàn, cùng chia sẻ mình tâm tình và nỗi niềm của ông, của tiền nhân, tổ tiên, bao nhiêu thế hệ, mấy ngàn năm, đã bám víu mảnh đất lịch sử ấy, những người sống sót vụ động đất. Nếu, ông thay đổi trang phục, ắt trông không khác gì người dân bản xứ thuở xưa, không khác với các tông đồ và tín hữu của thời giáo hội sơ khai. Nhìn lại hình, nhìn ông, với khuôn mặt dịu hiền, chân thành và phúc hậu, thật đáng mến, đáng nhớ. Chợt, liên tưởng đến những người trong cộng đồng Kitô hữu đầu tiên nơi nầy, miên man…Rồi Antakya, lòng mãi mãi luyến nhớ, thương, mến.

  • Phaolô-Antioch
  • Những người cộng sự với Phao lô và ai?

Suốt cuộc đời trần thế của Phaolô, ông không sống một mình, làm việc mưu sinh, ngay cả hành trình rao giảng tin mừng cho đến cuối đời, không đơn thân độc mã. Ông đã có nhiều cộng sự đồng hành và hỗ trợ ông trong sứ vụ truyền giáo, đặc biệt là tại Antioch, nơi cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên được hình thành. Các cộng sự này đóng góp quan trọng trong việc xây dựng và củng cố cộng đồng Kitô hữu sơ khai, và mỗi người đều có vai trò riêng trong công cuộc truyền giáo.

  • Những cộng sự chính của Thánh Phaolô tại Antioch
  1. Barnaba (Barnabas):
    • Vai trò: Barnaba là một trong những cộng sự gần gũi nhất của Phaolô trong sứ vụ truyền giáo tại Antioch. Ông được gọi là “con trai của sự an ủi” và nổi tiếng với tính cách nhân hậu, hòa giải. Barnaba đã giới thiệu Phaolô với các tông đồ tại Giêrusalem sau khi Phaolô trở lại đạo, giúp Phaolô được chấp nhận trong cộng đồng Kitô hữu. Tại Antioch, Barnaba đã được gửi từ Giêrusalem để kiểm tra và củng cố cộng đoàn đang phát triển tại đây (Công vụ 11:22-26). Ông cùng Phaolô lãnh đạo sứ vụ truyền giáo đầu tiên của Kitô giáo đến các vùng ngoại biên.
    • Đóng góp: Barnaba đóng vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo cộng đoàn Kitô hữu tại Antioch, cùng với Phaolô, dạy dỗ và củng cố đức tin cho các tín hữu mới, đặc biệt là các tín hữu dân ngoại. Ông cũng đóng góp vào việc giải quyết các vấn đề gây tranh cãi giữa các tín hữu Do Thái và dân ngoại.
  2. Silas:
    • Vai trò: Silas (hoặc Silvanus) là một nhà truyền giáo và nhà lãnh đạo Kitô giáo có uy tín, được gửi từ Giêrusalem đến Antioch để hỗ trợ trong công việc truyền giáo. Ông là một người cộng sự thân cận của Phaolô sau khi Barnaba và Phaolô chia tay do mâu thuẫn về việc sử dụng Maccô (Công vụ 15:36-40).
    • Đóng góp: Silas đã cùng Phaolô thực hiện các chuyến truyền giáo khác đến nhiều nơi sau Antioch, bao gồm vùng Tiểu Á và châu Âu (Công vụ 15:40). Ông không chỉ là một cộng sự đáng tin cậy mà còn là một người rao giảng xuất sắc và đóng góp trong việc truyền bá Tin Mừng và củng cố các cộng đoàn Kitô hữu.
  3. Mark (Máccô):
    • Vai trò: Mark, cũng được biết đến là tác giả của Phúc Âm Máccô, ban đầu là một cộng sự trẻ tuổi của Phaolô và Barnaba trong sứ vụ truyền giáo đầu tiên (Công vụ 12:25). Tuy nhiên, ông đã rời bỏ sứ vụ khi đến Pamphylia, gây ra một sự rạn nứt giữa Phaolô và Barnaba.
    • Đóng góp: Mặc dù ban đầu không thành công trong vai trò cộng sự, Mark đã trở lại và đóng góp lớn hơn sau này trong công cuộc truyền giáo và soạn thảo tài liệu về cuộc đời của Chúa Giêsu.
  4. Luca (Lukas):
    • Vai trò: Luca là một cộng sự thân thiết của Phaolô và cũng là tác giả của Phúc Âm Luca và Sách Công vụ Tông đồ. Ông đã đồng hành với Phaolô trong nhiều chuyến truyền giáo, bao gồm cả hành trình từ Troas đến Philippi và từ đó đến Rôma (Công vụ 16:10-17; 20:5-15; 21:1-18).
    • Đóng góp: Luca không chỉ là một cộng sự đáng tin cậy mà còn là người ghi lại lịch sử của Giáo hội sơ khai, cung cấp tài liệu quý giá về sự phát triển của Kitô giáo và các hoạt động truyền giáo của Phaolô.
  5. Titô (Titus):
    • Vai trò: Titô là một trong những cộng sự trẻ tuổi của Phaolô và đã đóng vai trò quan trọng trong sứ vụ truyền giáo của ông, đặc biệt là tại Corinth và các vùng khác. Titô cũng có mặt tại Công đồng Giêrusalem, nơi ông là minh chứng cho sự thành công của Phaolô trong việc truyền giáo cho dân ngoại mà không yêu cầu tuân giữ Luật Môi-sê (Galát 2:1-3).
    • Đóng góp: Titô đóng góp vào việc củng cố các cộng đoàn Kitô hữu và giúp điều hành các cộng đoàn đó, đặc biệt trong việc truyền giáo và hòa giải các mâu thuẫn nội bộ.

Những cộng sự này đã đóng vai trò không thể thiếu trong công cuộc truyền giáo của Phaolô, đặc biệt tại Antioch, nơi cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên được hình thành. Mỗi người mang đến những phẩm chất và khả năng riêng, góp phần tạo nên sự đa dạng và thành công trong sứ vụ truyền giáo. Sự cộng tác chặt chẽ giữa họ và Phaolô không chỉ giúp củng cố cộng đoàn Kitô hữu tại Antioch mà còn mở rộng Kitô giáo ra khắp Địa Trung Hải.

Những cộng sự này đã góp phần quan trọng vào việc định hình và phát triển Kitô giáo sơ khai, tạo nền tảng vững chắc cho sự lan rộng của đức tin Kitô giáo.

Lời cuối,

Chỉ một chủ để đơn sơ thôi, về một địa danh, một sự kiện, cũng không thể nào viết cho xuể. Như một học giả kinh thánh nói, ông đã dành trọn một phần tư thế kỷ để nghiên cứu, học hỏi và giảng dạy về Phaolô, dường như chưa đủ. Vậy, người viết là chi mà dám ước mơ viết trọn những gì tai nghe mắt thấy trên mọi dặm đường Phaolô đã đặt chân đến—cách riêng, tại Antioch.

Không riêng gì Antioch, hoặc nơi chôn nhau cắt rốn của Phaolo, Tarsus; nhưng, hầu hết những nơi mình dõi theo dấu chân Phaolo—dường như, mình đã gặp những con người, mọi giai cấp trong xã hội, từ bác tài xế taxi, em học sinh trung học, doanh nhân, sĩ quan cao cấp trong quân đội, nhà tri thức, chủ khách sạn, người buôn bán dọc đường, rất nhiều nơi, nhiều người—tưởng chừng như có sự quan phòng, ơn trên, xếp đặt, đón mình đến, đưa mình đi, dẫn đường chỉ lối, khám phá rất nhiều những ngạc nhiên, từ văn hoá, con người, truyền thống, giá trị tâm linh, và đặc biệt là quan hệ con người, siết chặt trái tim mình với hành trình mình đã đi qua, tiếc nuối, như không muốn rời.

Viết, chỉ mong đốt lên ngọn nến, khơi dậy lòng khát khao về đức tin của riêng mỗi người, thêm kiến thức, phong phú hoá sự hiểu biết về Phaolô, để rồi cùng nhau thốt lên, “chúng ta cùng say mến Phaolô, như chính Phaolô đã say mến đức Kitô.”

Bài viết dừng nơi đây, nhưng ý tưởng không khép lại, không đóng kín đam mê tìm tòi, học hỏi và nghiên cứu sâu ra hơn về các chủ đề liên quan đến Phaolô. Không biết Phaolô, không hiểu Phaolô, khó lòng mà biết Kitô giáo là gì, đức tin là chi và đời sống kitô hữu mang lại giá trị và ý nghĩa gì. Mời mọi người cùng dấn thân song hành…

BNĐ

Tài liệu tham khảo

  • Kinh Thánh Tân Ước: Công vụ Tông đồ (11 và 15), ghi lại sự thành lập cộng đồng Kitô giáo tại Antioch và các sứ vụ của Phaolô; Galát (2:11-14) là những phần quan trọng ghi lại sự hiện diện và vai trò của các tông đồ tại Antioch. Nơi Phaolô mô tả sự căng thẳng với Phêrô tại Antioch về vấn đề liên quan đến dân ngoại. Công vụ Tông đồ (đặc biệt là các chương 11, 13-15, 16) cung cấp cái nhìn chi tiết về các cộng sự của Phaolô và các chuyến truyền giáo của họ.
  • F.F. Bruce, Paul: Apostle of the Heart Set Free (1977): Một nguồn tài liệu toàn diện, chi tiết về cuộc đời và sứ vụ của Phaolô, cung cấp bối cảnh về mối quan hệ với Phêrô. Phân tích vai trò của Phaolô tại Antioch và sự phát triển của cộng đoàn Kitô giáo đầu tiên.
  • Raymond E. Brown, An Introduction to the New Testament (1997): Cung cấp cái nhìn tổng quan về sự phát triển của Kitô giáo sơ khai và vai trò của các tông đồ. Nghiên cứu học thuật về Tân Ước, cung cấp ngữ cảnh về mối quan hệ giữa Phaolô và Phêrô. Một nghiên cứu toàn diện về Tân Ước và vai trò của các tông đồ trong quá trình hình thành Kitô giáo.
  • N.T. Wright, Paul: A Biography (2018): Cuốn sách cung cấp cái nhìn sâu sắc về cuộc đời và thần học của Phaolô, đồng thời đặt ra bối cảnh về mối quan hệ của ông với Phêrô và những người khác. Phân tích chi tiết cuộc đời và sứ vụ của Phaolô, đặc biệt là sự phát triển cộng đoàn Kitô hữu tại Antioch.
  • Josephus, Jewish Antiquities: Một nguồn tài liệu lịch sử về bối cảnh Do Thái trong thời đại của các tông đồ. Nhà sử học người Do Thái, đã ghi lại về Antioch trong tác phẩm của mình, cung cấp bối cảnh xã hội và văn hóa của thành phố này.
  • Bart D. Ehrman, Peter, Paul, and Mary Magdalene: The Followers of Jesus in History and Legend (2006): Một phân tích hiện đại về vai trò của Phêrô và Phaolô trong lịch sử Giáo hội sơ khai. Một học giả kinh thánh rất uyên bác về Phaolô, đức Giêsu và Ki tô giáo nói chung.
  • Meier, John P. “A Marginal Jew: Rethinking the Historical Jesus, Vol. III. Double day. 2001. Một bộ bốn cuốn, công trình nghiên cứu nhiều thập niên, trình thuật rất chi tiết về con “người lịch sử của đức Giêsu”, thân thế, xã hội, lịch sử và môi trường sống mà đức Giêsu là trọng tâm.
  • John B. Polhill, Paul and His Letters (1999): Cuốn sách này phân tích các thư của Phaolô và cung cấp cái nhìn sâu sắc về các hoạt động truyền giáo của ông.