Sự kiện Đức tân Giáo hoàng chọn tông hiệu Lêô XIV lập tức làm nghĩ ngay đến Đức Lêô XIII. Và nói đến Đức Lêô XIII, người ta cũng nghĩ ngay đến thông điệp xã hội nổi tiếng của ngài là Rerum Novarum (Tân Sự hay Những điều mới mẻ). Xin giới thiệu với quý độc giả bản dịch mới của Thông điệp này, mà chúng tôi cố gắng dịch sát hơn để giúp cho việc nghiên cứu, đặc biệt cho môn Học thuyết xã hội Công giáo tại Đại Chủng viện Huế.

Chúng tôi dịch từ bản tiếng Pháp và tham khảo thêm bản tiếng Anh. Cách đánh số của hai bản này khác nhau. Văn phong và từ ngữ của Rerum Novarum khá cổ, vẫn còn dùng đại từ nhân xưng « Nous » (Ta) trịnh trọng để diễn tả bản thân ở ngôi thứ nhất. Chính Đức Gioan-Phaolô I sẽ khởi đầu truyền thống bỏ kiểu xưng hô này. Những trích dẫn Thánh Kinh là của nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ.

Rerum Novarum khai mào một truyền thống can thiệp của Huấn quyền Giáo hội vào lãnh vực kinh tế và xã hội để bảo vệ phẩm giá con người trước những bất công xã hội (cụ thể là vấn đề giới thợ thuyền). Thông điệp đã kêu gọi bảo vệ và tôn trọng quyền tư hữu chính đáng, kêu gọi đến những nghĩa vụ công bằng của cả công nhân lẫn chủ nhân, nhưng đặc biệt là vấn đề lương bổng mà giới chủ nhân phải có bổn phận trả cho cân xứng. Thông điệp này làm cho các Kitô hữu ý thức rằng giải pháp cho vấn đề xã hội là công việc của tất cả mọi người. Nó đã được nghiên cứu trong các giới nghiên cứu và đã trở nên lập trường của người Công giáo về vấn đề xã hội.

Thông điệp đặt nền móng cho Học thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo, vốn sẽ được canh tân và hoàn thiện dần bởi các thông điệp xã hội sau này. Người ta có thể thấy ở đó rõ ràng hoặc manh nha những nguyên tắc được gọi là trường tồn của Học thuyết xã hội Công giáo, cũng như những giá trị mà Học thuyết này muốn thăng tiến. Những nguyên tắc trường tồn như nhân vị, công ích, liên đới, bổ trợ, mục đích chung của của cải, quan tâm đến người nghèo, phát triển con người toàn diện, tham gia, ưu tiên người nghèo… ; và các giá trị như công bằng, bác ái, chân lý, tự do, tình huynh đệ….

Các luận điểm chính của Thông điệp là : bác bỏ giải pháp của xã hội chủ nghĩa cho vấn đề xã hội và khẳng định rằng quyền tư hữu là hợp pháp theo luật tự nhiên (RN, 3-12); biện minh cho sự can thiệp của Giáo hội vào các vấn đề xã hội nhằm giảm bớt sự khốn khổ không đáng có của người lao động (RN, 13-24); quyền can thiệp của Nhà nước vào đời sống kinh tế, chống lại lý thuyết tự do kinh tế vốn phản đối sự can thiệp này, đặc biệt là để xác định mức lương công bằng và phân phối tài sản tốt hơn giữa con người với nhau (RN, 25-35); sự hữu ích của các nghiệp đoàn cũng như các tổ chức do người Công giáo thành lập để nâng đỡ người lao động (RN, 36-44).

Nền tảng cho việc xây dựng học thuyết của Thông điệp là luật tự nhiên và do đó quyền tự nhiên, chủ yếu dưới ánh sáng học thuyết của thánh Tôma Aquinô mà Thông điệp gọi là “ánh sáng chung của lý trí và Triết học Kitô giáo”. Mặc khải Thánh Kinh hay nền tảng thần học chưa thật sự được chú trọng đến trong Thông điệp. Điều này phải nhờ đến sự canh tân của Công đồng Vatican II.

Theo cha Dominique Greiner, đọc Rerum Novarum cho thấy rõ rằng Đức Lêô XIII đã có một cái nhìn sắc bén về hoàn cảnh của giai cấp công nhân. Nhưng việc phân tích về sự dữ và bất công xã hội được chỉ được bàn đến cách vắn tắt. Bản văn ưu đãi cho một cái nhìn luân lý tôn giáo vốn nhanh chóng hướng đến việc biện hộ cho việc khôi phục một trật tự xã hội Kitô giáo và các thể chế của nó. Việc cải cách xã hội có khuynh hướng bị giảm thiểu thành việc trở lại với đời sống, đạo đức và các thể chế Kitô giáo : « Nếu xã hội loài người muốn được chữa lành, nó sẽ chỉ được chữa lành bằng cách quay trở lại với cuộc sống và các thể chế của Kitô giáo » (số 22, 2). « Điều kiện đầu tiên cần đạt được, đó là thiết lập nền đạo đức Kitô giáo. Không có nó, ngay cả những phương tiện được sự khôn ngoan của con người gợi ý như là hữu hiệu nhất cũng khó có thể mang lại kết quả bổ ích » (số 45, 1). Tinh thần Kitô giáo được đặt ở trung tâm của đời sống công cộng. Mặt thiêng liêng bị lẫn lộn với những thể chế Kitô giáo. Kitô giáo được xem như là có vai trò mẫu mực điều hòa hành động nhắm đến hạnh phúc đời đời và chính vì thế, Giáo hội cho là có quyền và có bổn phận can thiệp về mặt xã hội. Chỉ tôn giáo mới có thể phá hủy sự dữ ở tận gốc rễ của nó và nó tạo nên nền tảng của tất cả các luật lệ xã hội.

Để hiểu luận đề của Thông điệp Rerum Novarum như thế, cần phải hiểu quan niệm của Đức Lêô XIII về Nhà nước và Giáo hội. Quả thế, quan niệm này « được thể hiện rõ xung quanh khái niệm “xã hội hoàn hảo”, nghĩa là một xã hội “sở hữu tự nó và bởi chính nó tất cả các nguồn lực cần thiết cho sự tồn tại và hoạt động của nó”. Cả Giáo hội cũng như Nhà nước đều là những “xã hội hoàn hảo” và những xã hội này được phân biệt: “Một xã hội thuộc trật tự tinh thần, xã hội kia thuộc lãnh vực thế tục […]. Mỗi xã hội này đều có chủ quyền; mỗi xã hội đều bị giới hạn trong những giới hạn được xác định một cách hoàn hảo” (Immortale Dei). Từ sự phân biệt này nảy sinh ra một trật tự, một sự trỗi vượt của Giáo hội. Do đó, một mặt, quyền lực của Giáo hội “không thể thua kém hay phụ thuộc vào quyền lực dân sự dưới bất kỳ hình thức nào”; mặt khác, “các nguyên thủ quốc gia phải […] bao gồm trong số các nghĩa vụ chính của mình, nghĩa vụ thúc đẩy tôn giáo, bảo vệ tôn giáo bằng sự tử tế của mình, bao bọc tôn giáo bằng thẩm quyền giám hộ của pháp luật, và không ra lệnh hay quyết định bất cứ điều gì trái với tính chính trực của tôn giáo” (ibid.). Đức Lêô XIII cho rằng chỉ có Giáo hội mới có thể thiết lập một trật tự xã hội hài hòa trong khuôn khổ của điều có thể được gọi là “xã hội Kitô giáo”. Giáo hội nắm giữ chân lý là trụ cột vững chắc duy nhất có thể có cho một xã hội công bằng » (Baudoin Roger, Doctrine sociale de l’Eglise : une histoire contemporaine, Cerf, 2012, p.50).

Lm. Võ Xuân Tiến, PSS.

————————————————

THÔNG ĐIỆP RERUM NOVARUM

Kính gửi tất cả các Anh Em đáng kính của Ta, các Thượng phụ, các Giáo trưởng, các Tổng Giám mục, các Giám mục của thế giới Công giáo trong ân sủng và hiệp thông với Tòa Thánh, lời chào và phép lành Tòa Thánh.

Lêô XIII, Giáo hoàng,

Thưa Anh Em đáng kính,

1. Mối quan hệ giữa chủ và thợ đã thay đổi.

1. Lòng khát khao đổi mới vốn xâm chiếm các xã hội từ lâu và khiến họ luôn phiến động náo nhiệt, sớm hay muộn, sẽ chuyển từ các lĩnh vực chính trị sang lĩnh vực lân cận là kinh tế xã hội. Thật vậy, ngành công nghiệp đã phát triển và các phương pháp của nó đã được đổi mới hoàn toàn. Mối quan hệ giữa chủ và thợ đã thay đổi. Sự giàu có chảy vào tay một số người và số đông bị bỏ rơi trong cảnh bần cùng. Giới thợ thuyền đã có một quan điểm cao hơn về bản thân và ký kết một liên minh mật thiết với nhau hơn. Tất cả những sự kiện này, chưa nói đến sự băng hoại về đạo đức, đã dẫn đến một cuộc xung đột ghê gớm. Khắp nơi mọi tâm trí đều hồi hộp và lo lắng chờ đợi, chỉ điều đó thôi cũng đủ chứng tỏ ở đây có bao nhiêu lợi ích nghiêm túc. Hoàn cảnh này gây âu lo cho cả sự thiên tài của các học giả, sự thận trọng của các nhà hiền triết, sự cân nhắc của các cuộc họp dân chúng, sự sáng suốt của các nhà lập pháp và những lời khuyên của các nhà cầm quyền. Vào lúc này, không còn vấn đề nào làm bứt rứt tâm trí con người hơn nữa.

2. Thưa Anh Em đáng kính, đây là lý do tại sao, những gì, vì lợi ích của Giáo hội và phần rỗi chung của nhân loại, Ta cũng đã làm ở nơi khác thông qua các Thư của Ta về “Quyền tối thượng chính trị“, “Quyền Tự do của con người“, “Hiến pháp Kitô giáo của các Nhà nước” và về các chủ đề tương tự khác, để bác bỏ, theo như Ta thấy phù hợp, những ý kiến ​​sai lầm và dối trá, Ta xét thấy cần phải nhắc lại điều đó hôm nay và vì những lý do tương tự bằng cách nói với Anh Em về “Tình trạng của các thợ thuyền“. Tùy từng dịp, Ta đã bàn qua chủ đề này nhiều lần. Nhưng nhận thức về trách vụ tông đồ của Ta khiến Ta có nghĩa vụ phải bàn về chủ đề đó trong Thông điệp này một cách rõ ràng hơn và có tầm rộng rãi hơn, nhằm nêu bật các nguyên tắc cho một giải pháp phù hợp với chân lý và sự công bình.

3. Vấn đề không dễ giải quyết và cũng không tránh khỏi nguy hiểm. Quả thế, rất khó để xác định chính xác các quyền lợi và nghĩa vụ vốn điều chỉnh các mối quan hệ giữa người giàu và người vô sản, giữa nhà tư bản và người lao động. Mặt khác, vấn đề không phải là không có nguy hiểm, bởi vì những người gây rối và xảo trá thường xuyên tìm cách bóp méo ý nghĩa của nó và lợi dụng nó để kích động quần chúng và gây ra tình trạng bất ổn.

2. Đối với tầng lớp thấp kém: hoàn cảnh bất hạnh và khốn khổ không đáng có.

1. Dù vậy, Ta tin chắc, và mọi người đều đồng ý, rằng cần phải giúp đỡ những người thuộc tầng lớp thấp kém, thông qua các biện pháp nhanh chóng và hiệu quả, vì phần lớn họ đang ở trong hoàn cảnh bất hạnh và khốn khổ không đáng có.

2. Thế kỷ vừa qua đã phá bỏ các nghiệp đoàn cũ, vốn là nơi bảo vệ họ, mà không có gì thay thế chúng. Mọi nguyên tắc và cảm thức tôn giáo đều biến mất khỏi luật pháp và các thể chế công cộng, và do đó, dần dần, người lao động bị cô lập và không có khả năng bảo vệ, theo thời gian, đã thấy mình bị phó mặc cho lòng thương xót của những ông chủ phi nhân và lòng tham lam cạnh tranh vô độ. Thêm vào căn bệnh đó là việc cho vay nặng lãi đang giày vò. Bị lên án nhiều lần bởi sự phán xét của Giáo hội, nó không ngừng được thực hiện dưới một hình thức khác bởi những người ham lợi và tham lam vô độ. Thêm vào tất cả những điều này, cần phải bổ sung thêm sự tập trung nền công nghiệp và thương mại vào tay một số người, trở thành phần riêng của một số ít người giàu và sang trọng. Những người này do đó đã áp đặt một cái ách gần như nô lệ lên vô số người vô sản.

A – Vấn đề tiên quyết: đề xuất xóa bỏ quyền tư hữu, những hậu quả tai hại của nó

3. Luận đề của xã hội chủ nghĩa. Những sai lầm của nó.

1. Để chữa trị căn bệnh này, những người theo chủ nghĩa xã hội đã thúc đẩy sự thù hận ghen tương của người nghèo đối với những người sở hữu. Họ tuyên bố rằng tất cả quyền sở hữu tài sản cá nhân phải bị bãi bỏ, tài sản của mỗi người phải là tài sản chung của tất cả mọi người, và quyền quản lý chúng phải thuộc về các chính quyền thành phố hoặc Nhà nước. Bằng cách chuyển giao tài sản và phân phối bình đẳng giữa các công dân về tài sản và các lợi ích của họ, họ tự phụ đã mang lại một phương thuốc hiệu quả cho những căn bệnh hiện tại.

2. Nhưng còn lâu mới có khả năng chấm dứt xung đột, một lý thuyết như vậy sẽ gây hại cho giới thợ thuyền nếu nó được đưa vào thực hành. Hơn nữa, nó cực kỳ bất công, ở chỗ nó xâm phạm những quyền lợi hợp pháp của chủ sở hữu, làm sai lệch chức năng của Nhà nước và có xu hướng phá vỡ hoàn toàn cơ cấu xã hội.

4. Lý thuyết chủ nghĩa xã hội làm mất đi mọi hy vọng mở rộng gia sản của giới thợ thuyền.

1. Trên thực tế, thật dễ hiểu, lý do nội tại của lao động được thực hiện bởi bất kỳ ai thực hiện một nghề nghiệp, mục tiêu trước mắt mà người lao động hướng tới là thủ đắc tài sản mà họ sẽ sở hữu như của riêng mình và thuộc về họ. Bởi vì, nếu họ để sức lực và năng lượng của mình cho người khác sử dụng, thì rõ ràng đó chỉ là để đạt được những gì cung cấp cho nhu cầu sinh hoạt và cuộc sống của họ. Họ mong đợi từ lao động của mình một quyền tối thiểu và chặt chẽ, không chỉ nhận được tiền lương, mà còn được sử dụng nó theo cách họ thấy tốt cho mình.

2. Do đó, nếu bằng cách giảm chi tiêu của mình, họ cố gắng tiết kiệm được một số tiền và nếu để đảm bảo việc bảo quản chúng, chẳng hạn, họ đã dùng chúng để mua một cánh đồng, thì cánh đồng này chắc chắn chỉ là tiền lương được chuyển đổi. Do đó, đất đai có được sẽ là tài sản của người lao động giống như tiền công cho công việc của họ. Vì thế, rõ ràng quyền sở hữu động sản và bất động sản hệ tại chính điều đó.

3. Do đó, việc chuyển đổi sở hữu tư nhân thành sở hữu tập thể, vốn được chủ nghĩa xã hội hết sức ủng hộ, sẽ không có tác dụng nào khác ngoài việc làm cho hoàn cảnh của giới thợ thuyền trở nên bấp bênh hơn, bằng cách tước bỏ quyền tự do sử dụng tiền lương của họ và bằng cách đó, lấy đi mọi hy vọng và mọi khả năng mở rộng gia sản và cải thiện hoàn cảnh của họ.

5. Con người, khác với động vật, có quyền sở hữu tự nhiên, ổn định và vĩnh viễn.

1. Nhưng, và điều này dường như còn nghiêm trọng hơn nữa, phương thuốc được đề xuất lại rõ ràng đối lập với công lý, bởi vì quyền tư hữu và sở hữu cá nhân là một quyền tự nhiên của con người.

2. Quả thế, về mặt này, có một sự khác biệt rất lớn giữa con người và các động vật không có lý trí. Những động vật này không tự quản lý; chúng được thiên nhiên hướng dẫn và quản lý, bằng một bản năng kép, mà, một mặt, giữ cho hoạt động của chúng luôn cảnh giác và phát triển sức mạnh của chúng, mặt khác, đồng thời kích thích và hạn chế từng chuyển động của chúng. Bản năng đầu tiên dẫn chúng đến việc bảo tồn và bảo vệ sự sống của chúng, bản năng thứ hai dẫn chúng đến việc sinh sản và bảo tồn loài. Động vật dễ dàng đạt được kết quả kép này bằng cách sử dụng những thứ hiện có được đặt trong khả năng của chúng. Vả lại, chúng sẽ không có khả năng vươn xa hơn vì chúng chỉ bị thúc đẩy bởi các giác quan và bởi từng đối tượng cụ thể mà các giác quan cảm nhận được. Bản tính con người thì rất khác biệt. Trước hết, ở con người, các khả năng của động vật được tìm thấy ở mức độ hoàn hảo. Từ đó, con người, giống như động vật, có quyền hưởng thụ vật chất. Nhưng những khả năng này, dù có đầy đủ, nhưng không tạo nên toàn bộ bản tính con người. Chúng thấp kém hơn nhiều so với bản tính con người và buộc phải tuân theo và lệ thuộc vào bản tính đó. Điều vượt trội trong chúng ta, khiến chúng ta trở thành người và về cơ bản phân biệt chúng ta với thú vật, đó là tinh thần hay lý trí. Nhờ đặc quyền này, phải công nhận nơi con người không chỉ khả năng thông thường sử dụng những thứ bên ngoài, giống như mọi loài động vật, nhưng còn cả quyền sở hữu chúng một cách ổn định và vĩnh viễn, cả những thứ được tiêu thụ qua quá trình sử dụng và những thứ còn lại sau khi đã phục vụ chúng ta.

6. Tự bản tính, con người phải thống trị trái đất, nhà cung ứng cho tương lai con người.

1. Việc xem xét sâu xa hơn về bản tính con người sẽ còn làm nổi bật rõ chân lý này hơn. Con người thông qua trí năng của mình có thể nắm bắt được vô số đối tượng; bên cạnh những điều trong hiện tại, họ thêm vào và kết nối những điều trong tương lai; con người là chủ nhân của các hành động của mình. Ngoài ra, dưới sự hướng dẫn của luật vĩnh cửu và dưới sự cai quản phổ quát của Chúa Quan Phòng, một cách nào đó, con người là luật lệ và sự quan phòng của chính mình. Đây là lý do tại sao con người có quyền lựa chọn những thứ mà họ cho là phù hợp nhất để cung cấp, không chỉ cho hiện tại mà còn cho tương lai.

Do đó, con người phải có dưới sự quản trị của mình, không chỉ các sản phẩm của trái đất, mà cả chính trái đất mà họ nhận thấy nó được mời gọi, thông qua khả năng phong nhiêu của nó, trở thành nhà cung ứng cho tương lai của họ. Nhu cầu của con người thì không ngừng: hôm nay được thỏa mãn, ngày mai lại tái sinh với những đỏi hỏi mới. Vì thế, để họ phải có quyền được như vậy mọi lúc, tự nhiên phải cung cấp cho họ một yếu tố ổn định và lâu dài, có khả năng cung cấp cho họ phương tiện một cách vĩnh viễn. Tuy nhiên, nguồn tài nguyên vĩnh viễn này chỉ có thể được cung cấp bởi trái đất với sự phong phú vô tận của nó.

2. Và chúng ta đừng phó thác vào sự quan phòng của Nhà nước, bởi vì Nhà nước có sau con người. Trước khi Nhà nước có thể hình thành, con người đã nhận được từ tự nhiên quyền sống và bảo vệ sự tồn tại của mình.

7. Quyền tư hữu không mâu thuẫn với việc Thiên Chúa đã ban trái đất làm của chung cho con người.

1. Tính hợp pháp của quyền tư hữu cũng không thể bị phản đối bởi việc Thiên Chúa đã ban trái đất cho loài người hưởng dùng. Nếu chúng ta nói rằng Thiên Chúa ban trái đất làm của chung cho con người, thì điều này không có nghĩa là họ phải sở hữu nó một cách bừa bãi, nhưng là Thiên Chúa không cấp phần cho một người nào đặc biệt, Ngài đã nhường quyền vạch định tài sản cho sự khôn ngoan của con người và các thể chế của các dân tộc. Hơn nữa, mặc dù được phân chia thành tài sản riêng, trái đất vẫn phục vụ lợi ích chung của tất cả mọi người, vì không có ai trong số những người phàm không được nuôi dưỡng từ sản phẩm của ruộng đồng. Ai thiếu thì bù đắp bằng lao động. Đây là lý do tại sao chúng ta có thể khẳng định, một cách chân thật, rằng lao động là phương tiện phổ quát nhằm cung cấp cho những nhu cầu của cuộc sống, cho dù người ta thực hiện nó bằng đất đai riêng của mình, hay trong một nghề nghiệp nào đó mà tiền công của nó chỉ được rút ra từ các sản phẩm của trái đất và được trao đổi với chúng.

2. Từ tất cả những điều này, một lần nữa, có thể suy ra rằng quyền tư hữu hoàn toàn phù hợp với tự nhiên. Chắc chắn, trái đất cung cấp cho con người rất nhiều thứ cần thiết để bảo tồn sự sống và thậm chí nhiều hơn thế để hoàn thiện con người, nhưng nó không thể tự mình làm được điều đó nếu không có sự cày cấy trồng trọt và sự chăm sóc của con người.

3. Thế nhưng, con người, khi sử dụng các nguồn lực của trí óc và sức mạnh của cơ thể để có được những của cải này của tự nhiên, có thể nói, đang áp dụng cho chính mình phần của tự nhiên vật chất mà mình canh tác được. Họ để lại một dấu ấn nhất định về con người mình ở đó, đến mức công bằng mà nói, tài sản này từ nay sẽ thuộc sở hữu của họ, và không ai được phép xâm phạm quyền của họ bằng bất kỳ hình thức nào.

8. Mối liên hệ giữa quyền sở hữu và lao động.

1. Sức mạnh của những lập luận này quá rõ ràng đến mức đáng ngạc nhiên khi một số người ủng hộ những quan điểm lỗi thời vẫn có thể mâu thuẫn với chúng, bằng cách chắc chắn trao cho cá nhân quyền sử dụng đất và hoa quả từ đồng ruộng, nhưng lại từ chối quyền sở hữu của cá nhân đó với tư cách là chủ sở hữu mảnh đất mà người ấy đã xây dựng, phần đất mà người ấy đã canh tác. Do đó, họ không thấy rằng họ đang tước đi thành quả lao nhọc của người này. Đồng ruộng này, được bàn tay người canh tác cày xới một cách khéo léo, đã thay đổi hoàn toàn bản chất: xưa còn hoang sơ, nay đã được khai hoang; từ cằn cỗi, nó đã trở nên màu mỡ. Những gì làm cho nó tốt hơn giờ gắn liền đất và hòa vào đất đến mức phần lớn khó có thể tách rời được. Bây giờ, liệu công lý có dung thứ cho một người lạ đến chiếm giữ và sử dụng mảnh đất được tưới bằng mồ hôi của người đã canh tác nó? Cũng như kết quả theo sau nguyên nhân, thì thành quả của lao động cũng phải thuộc về người lao động là điều đúng đắn.

2. Vì thế, thật hợp lý khi quan điểm chung của nhân loại, không bị ảnh hưởng bởi những ý kiến ​​trái ngược của một nhóm nhỏ, công nhận, bằng cách xem xét tự nhiên một cách cẩn thận, rằng các quy luật của nó tạo thành nền tảng đầu tiên cho việc phân phối của cải và tài sản tư nhân. Thật hợp lý khi phong tục của mọi thế kỷ đã xác nhận một hoàn cảnh rất phù hợp với bản tính của con người và cuộc sống yên bình và hòa bình của các xã hội. Về phần mình, luật dân sự, vốn rút giá trị của nó, khi nó công bằng, từ luật tự nhiên, phải xác nhận quyền này và bảo vệ nó bằng sức mạnh ràng buộc. Cuối cùng, thẩm quyền của luật Thiên Chúa đến đóng ấn trên đó, bảo vệ nó, dưới một hình phạt rất nghiêm trọng, bằng cách cấm ngay cả thèm muốn của cải của người khác. « Ngươi không được ham muốn vợ người ta, ngươi không được thèm muốn nhà của người ta, đồng ruộng, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta[1]».

9. Mối liên hệ giữa quyền sở hữu và nghĩa vụ đời sống gia đình.

1. Tuy nhiên, những quyền này, vốn bẩm sinh nơi mỗi người, thậm chí còn trở nên chặt chẽ hơn khi chúng ta xem xét chúng trong các mối tương quan và mối liên kết của chúng với các nghĩa vụ của cuộc sống gia đình.

Chắc chắn, khi lựa chọn một lối sống, mỗi người đều có thể tùy ý, hoặc tuân theo lời khuyên của Chúa Giêsu Kitô về đức khiết tịnh hoặc ký kết hôn nhân. Không luật lệ nào của con người có thể tước bỏ quyền tự nhiên và nguyên thủy của mọi người được kết hôn, cũng như không thể gạt bỏ mục đích của hôn nhân đã được Thiên Chúa thiết lập ngay từ đầu: « Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều[2] ». Do đó, chúng ta có gia đình, nghĩa là xã hội tại gia, một xã hội rất nhỏ, chắc chắn là vậy, nhưng có thực và có trước bất kỳ xã hội dân sự nào, mà từ đó, nhất thiết phải có một số quyền lợi và một số nghĩa vụ hoàn toàn độc lập với Nhà nước.

2. Quyền sở hữu mà chúng ta nhân danh tự nhiên đòi hỏi cho cá nhân, giờ đây phải được chuyển giao cho người gia trưởng. Hơn nữa, khi chuyển sang xã hội gia đình, quyền đó càng có thêm sức mạnh khi con người được mở rộng hơn ở đó.

10. Di sản gia đình. Sự thừa kế.

1. Tự nhiên đặt cho người cha gia đình nghĩa vụ thiêng liêng là nuôi dưỡng và giáo dục con cái mình. Hơn nữa, vì con cái phản ánh diện mạo của người cha và là một phần mở rộng của con người ông, nên tự nhiên thôi thúc ông quan tâm đến tương lai của chúng và tạo cho chúng một di sản giúp chúng tự bảo vệ mình, trong hành trình nguy hiểm của cuộc đời, chống lại mọi bất ngờ của vận rủi. Tuy nhiên, ông sẽ chỉ có thể tạo ra di sản này cho chúng thông qua việc mua tậu và sở hữu những tài sản lâu dài và sinh lợi mà ông có thể truyền lại cho chúng bằng đường thừa kế.

2. Cũng như xã hội dân sự, gia đình, như Ta đã nói ở trên, là một xã hội thực sự, có thẩm quyền riêng là thẩm quyền của người cha. Đây là lý do tại sao, chắc chắn luôn nằm trong phạm vi được xác định bởi mục đích trực tiếp của nó, gia đình được hưởng các quyền ít nhất ngang bằng với các quyền của xã hội dân sự, trong việc lựa chọn và sử dụng tất cả những gì mà việc bảo tồn và thực thi sự độc lập đúng đắn của nó đòi hỏi. Ta nói, ít nhất là ngang bằng bởi vì xã hội gia đình có một ưu tiên hợp lý và một ưu tiên thực sự trên xã hội dân sự, mà các quyền và nghĩa vụ của nó nhất thiết phải dự phần. Nếu các cá nhân, nếu các gia đình bước vào xã hội mà gặp trở ngại thay vì hỗ trợ, quyền lợi của họ bị giảm sút thay vì được bảo vệ, thì phải trốn tránh xã hội đó hơn là tìm kiếm.

11. Quyền bính dân sự phải bảo vệ xã hội gia đình.

Muốn quyền bính dân sự tùy tiện xâm phạm tận cung thánh của gia đình là một sai lầm nghiêm trọng và tai hại. Chắc chắn, nếu ở đâu đó có một gia đình rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng và đang nỗ lực vô ích để thoát ra khỏi đó, thì đúng là, trong những hoàn cảnh cùng cực như vậy, chính quyền phải đến trợ giúp, vì mỗi gia đình là một thành viên của xã hội. Tương tự như vậy, nếu ở đâu đó có một mái ấm gia đình xảy ra sự vi phạm nghiêm trọng quyền lợi lẫn nhau, thì chính quyền phải khôi phục quyền lợi của mỗi người ở đó. Đây không phải là chiếm đoạt các quyền hạn của công dân, mà là củng cố các quyền của họ, bảo vệ chúng, bênh vực chúng khi thích hợp. Tuy nhiên, hành động của những người cai quản Nhà nước phải dừng lại ở đó. Tự nhiên cấm họ vượt quá những giới hạn này. Thẩm quyền của người cha không thể bị Nhà nước bãi bỏ hay làm tiêu tan, bởi vì nó có cùng nguồn gốc như chính sự sống con người. Con cái là điều gì đó của người cha của chúng. Một cách nào đó, chúng là phần mở rộng con người của ông. Nói một cách chính xác, chúng không tự mình tập hợp và hòa nhập vào xã hội dân sự ngay lập tức, nhưng thông qua trung gian là xã hội gia đình nơi chúng được sinh ra. Vì « con cái tự nhiên là một phần của người cha nên chúng phải chịu sự giám hộ của cha mẹ cho đến khi biết sử dụng quyền tự do ý chí[3]». Vì vậy, khi thay thế sự quan phòng của người cha bằng sự quan phòng của Nhà nước, những người theo chủ nghĩa xã hội đã đi ngược lại công lý tự nhiên và phá vỡ mối ràng buộc của gia đình.

12. Hậu quả tai hại của lý thuyết xã hội chủ nghĩa về sở hữu tập thể.

1. Nhưng, ngoài sự bất công trong hệ thống của họ, chúng ta dễ dàng nhận thấy tất cả những hậu quả tai hại: sự rối loạn trong mọi tầng lớp xã hội, tình trạng nô lệ tồi tệ và không thể chịu đựng được đối với mọi công dân, cánh cửa mở ra cho mọi ghen tỵ, mọi bất mãn, mọi bất hòa; tài năng và khả năng không được khuyến khích, và hậu quả tất yếu, tài sản bị cạn kiệt ngay từ nguồn của họ; cuối cùng, thay cho sự bình đẳng được mơ ước rất nhiều này là sự bình đẳng trong cảnh thiếu thốn, trong cảnh bần cùng và khốn khổ.

2. Từ tất cả những gì Ta vừa nói, người ta hiểu rằng lý thuyết xã hội chủ nghĩa về sở hữu tập thể phải tuyệt đối bị bác bỏ, vì nó gây phương hại đến chính những người mà người ta muốn giúp đỡ, đi ngược lại các quyền tự nhiên của cá nhân, bóp méo chức năng của Nhà nước và gây rối sự yên bình công cộng. Do đó, hãy khẳng định rõ ràng rằng nền tảng đầu tiên được đặt ra bởi tất cả những ai chân thành mong muốn lợi ích của người dân, đó là tính bất khả xâm phạm của quyền tư hữu.

B – Quyền của Giáo hội đề cập đến chủ đề này và sự bảo đảm của Giáo hội để thực hiện điều đó một cách hiệu quả

13. Cần thiết nhờ đến tôn giáo và Giáo hội.

1. Bây giờ, chúng ta hãy xem nên tìm kiếm phương thuốc rất được mong muốn ở đâu. Ta hoàn toàn vững tin khi tiếp cận chủ đề này, và với đầy đủ quyền hạn của Ta, vì sẽ không tìm được giải pháp hữu hiệu nào cho vấn đề sôi động này nếu không nhờ đến tôn giáo và Giáo hội. Do đó, vì chính Ta đã được giao phó việc bảo vệ tôn giáo và quản lý những gì thuộc lãnh vực của Giáo hội, nên việc Ta giữ im lặng trước mắt mọi người sẽ là bỏ bê bổn phận của Ta.

2. Chắc chắn, vấn đề có tính nghiêm trọng này vẫn đòi hỏi các tác nhân khác chia sẻ hoạt động và nỗ lực. Ta muốn nói về các nguyên thủ quốc gia, về các ông chủ và những người giàu có, về chính các thợ thuyền, những người mà số phận của họ đang được nói đến ở đây. Nhưng điều Ta khẳng định một cách không do dự, đó là hành động vô ích của họ bên ngoài hành động của Giáo hội. Quả thật, chính Giáo hội kín múc từ Tin Mừng các học thuyết có khả năng, hoặc chấm dứt cuộc xung đột, hoặc ít nhất làm dịu nó lại, bằng cách loại bỏ khỏi nó tất cả sự ác liệt và gay gắt; Giáo hội không bằng lòng soi sáng các tâm trí bằng giáo huấn của mình, nhưng còn cố gắng điều chỉnh đời sống và phong hóa của mỗi người; Giáo hội, thông qua một loạt các tổ chức từ thiện tuyệt vời, có xu hướng cải thiện cuộc sống của các giai cấp nghèo; Giáo hội mong muốn và tha thiết mong muốn rằng mọi giai cấp tập hợp tri ​​thức và sức lực của họ, để đưa ra giải pháp tốt nhất có thể cho vấn đề thợ thuyền; cuối cùng, Giáo hội cho rằng luật pháp và nhà cầm quyền phải mang lại phần hợp tác của họ cho giải pháp này, chắc chắn với sự chừng mực và khôn ngoan.

14. Con người phải chấp nhận những khác biệt và sự bất bình đẳng trong các tình trạng tương ứng của mình, đặc biệt liên quan đến lao động.

1. Nguyên tắc đầu tiên được đưa ra, đó là con người phải chấp nhận sự cần thiết này của bản tính mình, vốn không thể nâng mọi người lên cùng một bình diện trong xã hội dân sự. Chắc chắn, đây chính là điều mà những người theo chủ nghĩa xã hội đang theo đuổi. Nhưng chống lại tự nhiên, mọi nỗ lực đều vô ích. Quả thế, chính tự nhiên đã xếp đặt những khác biệt đa dạng cũng như sâu xa nơi con người: sự khác biệt về trí tuệ, tài năng, khả năng, sức khỏe, sức mạnh; những khác biệt tất yếu, từ đó nảy sinh sự bất bình đẳng về tình trạng. Hơn nữa, sự bất bình đẳng này mang lại lợi ích cho mọi người, cả xã hội và cá nhân. Đời sống xã hội đòi hỏi một tổ chức rất khác nhau và các chức năng rất đa dạng. Chính điều này khiến con người chia sẻ với nhau những chức năng này, đặc biệt, đó là sự khác biệt về tình trạng tương ứng họ.

2. Đặc biệt liên quan đến lao động, con người, ngay cả trong trạng thái vô tội, cũng không được định phải sống nhàn rỗi. Nhưng điều mà ý chí tự do chọn lựa như là một thực hành dễ chịu, đã trở thành một điều bó buộc sau khi phạm tội, bị áp đặt như một sự đền tội và kèm theo đau khổ. « Đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra[4]».

3. Cũng thế, tất cả những tai họa khác ập xuống trên con người sẽ không có hồi kết hoặc tạm dừng ở trần thế này, bởi vì hậu quả tai hại của tội lỗi là cay đắng, tham lam, ác độc và chúng tất yếu phải theo con người cho đến hơi thở cuối cùng. Đúng vậy, đau đớn và đau khổ là nét riêng của loài người, và cho dù con người có cố gắng và thử mọi cách để trừ bỏ chúng đến đâu, họ cũng sẽ không bao giờ thành công, bất kể họ triển khai nguồn lực nào và sử dụng bất kỳ sức mạnh nào. Nếu có ai gán cho mình khả năng như thế, nếu có ai hứa hẹn cho người nghèo một cuộc sống thoát khỏi khổ đau, hoàn toàn yên nghỉ và vui hưởng mãi mãi, thì chắc chắn họ đang lừa dối người dân và đang gài bẫy người dân, để từ đó trong tương lai sẽ xuất hiện những tai họa khủng khiếp hơn những tai họa hiện tại. Tốt hơn là nên nhìn mọi sự như chúng là, và như Ta đã nói, tìm kiếm ở nơi khác một phương thuốc có khả năng làm giảm bớt những căn bệnh của chúng ta.

15. Hai giai cấp không phải là kẻ thù, nhưng bổ sung cho nhau. Giàu và nghèo. Tư bản và lao động.

1. Sai lầm cơ bản trong vấn đề hiện tại, đó là cho rằng hai giai cấp sinh ra đã là kẻ thù của nhau, như thể tự nhiên đã trang bị vũ khí cho người giàu và người nghèo để họ chiến đấu với nhau trong một cuộc đấu tay đôi dai dẳng. Đây là một khẳng định vô lý và sai lầm đến mức chân lý được tìm thấy trong một học thuyết hoàn toàn trái ngược.

2. Trong cơ thể con người, các chi thể, mặc dù đa dạng, nhưng vẫn thích nghi với nhau một cách kỳ diệu, để tạo thành một tổng thể hoàn toàn cân đối và có thể gọi là đối xứng. Vì vậy, trong xã hội, hai giai cấp được định sẵn bởi tự nhiên là phải đoàn kết hài hòa và gắn liền với nhau ở trạng thái cân bằng hoàn hảo. Chúng có nhu cầu cấp thiết với nhau: không thể có tư bản mà không có lao động, cũng như không thể có lao động mà không có tư bản. Sự hòa hợp tạo ra trật tự và vẻ đẹp. Ngược lại, từ xung đột liên tục chỉ có thể dẫn đến sự hỗn loạn của các cuộc đấu tranh man rợ.

3. Thế nhưng, để loại bỏ cuộc xung đột này và cắt đứt tận gốc rễ căn bệnh, các thể chế Kitô giáo có trong tay những phương tiện đáng ngưỡng mộ và đa dạng.

16. Nghĩa vụ công bằng của thợ và nghĩa vụ công bằng của chủ.

1. Trước hết, toàn bộ các chân lý tôn giáo, mà Giáo hội là người gìn giữ và giải thích, có khả năng tập hợp và hòa giải người giàu và người nghèo, bằng cách nhắc nhở cả hai giai cấp về nghĩa vụ hỗ tương của họ.

2. Trước mọi nghĩa vụ khác, phải đặt những nghĩa vụ xuất phát từ công lý.

3. Trong số những nghĩa vụ này, có những nghĩa vụ liên quan đến người nghèo và giới thợ thuyền. Họ phải thực hiện đầy đủ và trung thực tất cả công việc mà họ đã cam kết theo hợp đồng tự do và công bằng. Họ không được làm thiệt hại chủ của mình, cả về tài sản cũng như con người của ông. Chính những yêu sách của họ phải tránh bạo lực và không bao giờ mang hình thức nổi loạn. Họ phải tránh xa những kẻ đồi bại, những kẻ trong những bài phát biểu dối trá, gợi cho họ những hy vọng phóng đại và đưa ra những lời hứa hẹn lớn lao, vốn chỉ dẫn đến những hối tiếc vô ích và hủy hoại tài sản.

4. Còn về người giàu và ông chủ, họ không được đối xử thợ thuyền như nô lệ; thật công bằng khi họ tôn trọng nơi thợ thuyền phẩm giá con người, được nâng cao hơn nữa bởi phẩm giá của người Kitô hữu. Lao động của thân xác, theo chứng tá chung của lý trí và triết học Kitô giáo, không hề là một lý do để xấu hổ, nhưng còn tôn vinh con người, vì nó cung cấp cho con người một phương tiện cao quý để nâng đỡ cuộc sống. Điều đáng xấu hổ và phi nhân, đó là sử dụng con người như một công cụ kiếm lợi hèn hạ, chỉ coi con người tương xứng với sức mạnh của đôi tay. Hơn nữa, Kitô giáo đòi hỏi rằng lợi ích tinh thần của thợ thuyền và lợi ích của linh hồn họ phải được tính đến. Các chủ nhân có trách nhiệm đảm bảo người thợ có đủ thời gian dành cho bổn phận tôn giáo; đừng để họ bị bỏ mặc cho sự quyến rũ và gạ gẫm hư hỏng; đừng để điều gì làm suy yếu tinh thần gia đình hay thói quen tiết kiệm của họ. Ông chủ cũng bị cấm áp đặt cho người dưới quyền của mình một công việc vượt quá sức lực của họ hoặc không phù hợp với tuổi tác hay giới tính.

17. Những nghĩa vụ công bằng riêng biệt của chủ nhân, đặc biệt là tiền lương công bằng.

1. Tuy nhiên, trong số những nghĩa vụ chính của ông chủ, cần phải đặt nghĩa vụ trả lương xứng đáng cho mỗi người lên hàng đầu. Chắc chắn, để xác định thước đo tiền lương công bằng, có nhiều quan điểm cần phải xem xét. Nhưng nói chung, người giàu và chủ nhân hãy nhớ rằng việc bóc lột sự nghèo đói và khốn khổ cũng như đầu cơ vào cảnh bần cùng là những điều cũng bị thiên luật và nhân luật lên án. Tước đoạt tiền lao công của bất kỳ ai sẽ là một tội ác phải kêu trời trừng phạt. « Các người đã gian lận mà giữ lại tiền lương của những thợ đi cắt lúa trong ruộng của các người. Kìa, tiền lương ấy đang kêu lên oán trách các người, và tiếng kêu của những thợ gặt ấy đã thấu đến tai Chúa các đạo binh[5]».

2. Cuối cùng, về mặt tôn giáo, người giàu phải tránh bất kỳ hành động bạo lực, gian lận, thủ đoạn cho vay nặng lãi nào có thể làm tổn hại đến tiền tiết kiệm của người nghèo, càng hơn nữa vì người nghèo ít có khả năng tự bảo vệ mình và tài sản của họ thiêng liêng hơn vì ít ỏi hơn.

3. Ta tự hỏi, liệu việc tuân theo những luật lệ này phải chăng chỉ duy nó không đủ để chấm dứt mọi sự đối kháng và loại bỏ những nguyên nhân của nó hay sao?

18. Tình bạn giữa tất cả mọi người, thường được kêu gọi đến hạnh phúc vĩnh hằng.

1. Tuy nhiên, được Chúa Giêsu Kitô dạy dỗ và hướng dẫn, Giáo hội thậm chí còn có cái nhìn cao hơn. Giáo hội đề nghị một bộ giới luật đầy đủ hơn, bởi vì Giáo hội khao khát thắt chặt sự đoàn kết của hai giai cấp đến mức kết hợp họ với nhau bằng mối liên hệ tình bạn đích thực.

2. Không ai có thể có sự hiểu biết thực sự về cuộc sống hữu tử và đánh giá đúng giá trị đích thực của nó nếu họ không quan tâm đến cuộc sống khác vốn bất tử này. Loại bỏ sự sống bất tử này, mọi loại và mọi ý niệm thực sự về sự thiện đều biến mất. Hơn nữa, toàn bộ vũ trụ trở thành một bí nhiệm không thể hiểu được. Khi chúng ta rời bỏ cuộc sống này, chỉ khi đó chúng ta mới bắt đầu sống. Chân lý này, vốn được chính tự nhiên dạy cho chúng ta, là một tín điều Kitô giáo. Trên đó, như trên nền tảng đầu tiên của nó, toàn bộ tôn giáo được xây dựng. Không, Thiên Chúa không tạo dựng chúng ta cho những sự mong manh và suy tàn, nhưng cho những sự trên trời và vĩnh cửu. Ngài đã ban cho chúng ta trái đất này không phải như một nơi ở cố định, nhưng như một nơi lưu đày.

3. Cho dù bạn có rất nhiều của cải và tất cả những gì có tiếng là vận may, hay bạn bị tước mất nó, điều đó không thành vấn đề đối với hạnh phúc vĩnh cửu. Điều quan trọng, đó là bạn sử dụng nó như thế nào. Bất chấp ơn cứu độ tròn đầy mà Người mang đến cho chúng ta, Chúa Giêsu Kitô vẫn không loại bỏ những mối sầu khổ, vốn hình thành gần như toàn bộ cốt nền của cuộc sống hữu tử này; Người đã biến chúng thành những động lực cho nhân đức và nguồn công lao, đến nỗi không ai có thể ước vọng phần thưởng vĩnh cửu nếu không bước đi theo dấu chân đẫm máu của Chúa Giêsu Kitô. « Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người[6]». Hơn nữa, bằng cách sẵn lòng chọn Thập Giá và những cực hình, Người đã đặc biệt làm dịu đi sức mạnh và sự cay đắng của nó. Để làm cho sự đau khổ của chúng ta có thể chịu được hơn, Người đã thêm ân sủng và lời hứa về phần thưởng vô tận vào tấm gương đó. « Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời[7]». Vì vậy, những người giàu có ở thế gian này được cảnh báo rằng của cải không bảo vệ họ khỏi đau khổ, chúng không có ích gì cho cuộc sống vĩnh cửu, nhưng chỉ là một trở ngại[8]; họ phải lo sợ trước những lời răn đe bất thường mà Chúa Giêsu Kitô thốt ra chống lại người giàu[9]; cuối cùng sẽ đến một ngày họ phải có một giải trình rất nghiêm khắc trước mặt Thiên Chúa, Thẩm Phán của họ, về việc họ đã sử dụng tài sản của mình như thế nào.

19. Việc sử dụng của cải phải là chung. Cái cần thiết và cái thừa thãi. Một nghĩa vụ bác ái.

1. Về việc sử dụng của cải, đây là giáo huấn tuyệt vời và cực kỳ quan trọng mà triết học đã có thể phác thảo, nhưng Giáo hội có nhiệm vụ mang lại cho chúng ta sự hoàn thiện của nó và chuyển từ lý thuyết sang thực hành. Nền tảng của học thuyết này nằm trong sự phân biệt giữa việc sở hữu đúng đắn của cải và việc sử dụng hợp pháp của cải đó. Quyền tư hữu, như chúng ta đã thấy ở trên, thuộc quyền tự nhiên đối với con người. Việc thực hiện quyền này là điều không những được phép, nhất là đối với những người sống trong xã hội, mà còn hoàn toàn cần thiết. « Con người được phép sở hữu làm của riêng và đó thậm chí còn cần thiết cho cuộc sống con người[10]». Nhưng nếu người ta hỏi việc sử dụng của cải hệ tại điều gì, thì Giáo hội trả lời không chút do dự: « Về phương diện này, con người không được coi của cải vật chất là của riêng, nhưng là của chung, để dễ dàng chia sẻ chúng với người khác khi họ cần. Đây là lý do tại sao thánh Tông đồ đã nói: Divitibus hujus sœculi prœcipe facile tribuere, communicare – hãy ra lệnh cho những người giàu có của thế gian này… cho đi một cách dễ dàng, chia sẻ của cải của họ[11]».

2. Chắc chắn không ai buộc phải giúp đỡ người lân cận bằng cách cho đi những nhu cầu cần thiết của họ hoặc của gia đình họ, thậm chí không được cắt xén những gì được đòi hỏi một cách hợp lý để duy trì điều kiện sống của mình một cách phù hợp: « Quả thế, không ai được sống trái với lẽ phải [12]».

3. Nhưng từ khi người ta đã đáp ứng được những nhu cầu cần thiết và chỗ đứng của một người được suy xét một cách công bằng, thì việc rót phần dư thừa cho người nghèo là một nghĩa vụ. « Những gì còn lại, hãy bố thí[13]».

4. Đó là một nghĩa vụ không phải của công lý chặt, ngoại trừ trong những trường hợp cực kỳ cùng cực, nhưng là của đức ái Kitô giáo, một nghĩa vụ mà người ta không thể thực hiện được bằng con đường công lý.

5. Nhưng, ngoài những phán xét của con người và luật lệ của họ, có luật lệ và sự phán xét của Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng ta, Đấng thuyết phục chúng ta bằng mọi cách để có thói quen bố thí. Ngài nói : « Cho thì có phúc hơn là nhận[14]». Chúa sẽ coi như làm cho hay từ chối chính Người, những của bố thí đã được làm cho hay từ chối cho người nghèo. « Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy[15]».

6. Vậy, đây là bản tóm tắt trong vài từ về học thuyết này: Bất cứ ai đã nhận được từ Lòng nhân từ của Thiên Chúa một sự dồi dào hơn, hoặc là của cải bên ngoài và thể xác, hoặc của cải tâm hồn, đều đã nhận được chúng với mục đích sử dụng chúng để hoàn thiện bản thân, và, cũng với tư cách là thừa tác viên của Chúa Quan Phòng, để giúp đỡ người khác. Vì vậy, « ai có tài ăn nói, người ấy hãy coi chừng đừng nín lặng; ai có của cải dồi dào, người ấy đừng để lòng thương xót tê liệt trong sâu thẳm trái tim; ai có nghệ thuật cai trị, người ấy hãy cẩn thận áp dụng để chia sẻ với anh em mình cả việc thực thi lẫn lợi ích.[16] »

20. Nghèo không phải là điều ô nhục. Phẩm giá thực sự của con người nằm ở phẩm chất đạo đức của họ.

1. Đối với những người thua thiệt về của cải, họ học biết được từ Giáo hội rằng, theo sự phán xét của chính Thiên Chúa, nghèo không phải là điều ô nhục và không được xấu hổ khi phải lao động để kiếm miếng ăn. Đây là điều mà Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã xác nhận bằng gương sáng của Người. Người là Đấng « vốn giàu có nhưng đã trở nên nghèo khó[17]» để cứu độ loài người; Đấng, là con Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa, đã muốn xuất hiện trước mắt thế gian làm con của một người thợ; Đấng đã dành phần lớn cuộc đời mình cho công việc làm thuê. « Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria sao?[18]».

2. Ai chiêm ngưỡng mẫu gương của Chúa sẽ hiểu dễ dàng hơn những gì Ta sắp nói: phẩm giá đích thực của con người và sự tuyệt hảo của con người nằm ở phẩm chất đạo đức của con người, nghĩa là ở đức hạnh của họ; đức hạnh là di sản chung của con người, vừa tầm của tất cả mọi người, già trẻ, giàu nghèo; chỉ có đức hạnh và công đức, ở bất cứ nơi nào chúng được gặp thấy, mới nhận được phần thưởng là hạnh phúc vĩnh cửu. Hơn nữa, chính những giai cấp bất hạnh mà trái tim Chúa dường như hướng về nhiều hơn. Chúa Giêsu Kitô gọi người nghèo khó là người có phúc[19]; Người yêu thương mời gọi tất cả những ai đau khổ và khóc lóc hãy đến với Người để an ủi họ[20]; Người ôm lấy những kẻ bé mọn và những người bị áp bức với lòng bác ái dịu dàng hơn. Những học thuyết này chắc chắn được khéo léo đưa ra để hạ thấp tâm hồn kiêu ngạo của người giàu và khiến họ trở nên hạ mình hơn, để nâng cao lòng can đảm của những người đau khổ và truyền cảm hứng cho họ về sự cam chịu. Chúng có thể giảm bớt khoảng cách mà thói kiêu ngạo thích duy trì; người ta sẽ dễ dàng đạt được rằng cả hai bên sẽ chung tay và cả hai ý muốn sẽ kết hợp trong cùng một tình bạn.

21. Hơn cả tình bạn, đó là tình yêu huynh đệ.

1. Nhưng tình bạn mà thôi thì vẫn còn quá ít: nếu người ta tuân theo giới luật của Kitô giáo, thì sự kết hợp sẽ diễn ra trong tình yêu huynh đệ. Ở cả hai bên, người ta sẽ biết và sẽ hiểu rằng tất cả mọi người đều hoàn toàn xuất thân từ Thiên Chúa, người Cha chung của họ; rằng Thiên Chúa là mục đích chung và duy nhất của họ, và chỉ có Ngài mới có khả năng thông truyền hạnh phúc hoàn hảo và tuyệt đối cho các thiên thần và loài người; rằng tất cả họ đều cũng được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc và được Người phục hồi phẩm giá làm con Thiên Chúa, và do đó, mối dây huynh đệ thực sự đã kết hợp họ với nhau, hoặc với Chúa Kitô, Chúa của họ, Đấng là Trưởng Tử giữa một đàn em đông đúc, primogenitus in multis fratributions. Cuối cùng, họ sẽ biết rằng tất cả những của cải trong thiên nhiên, tất cả những kho tàng ân sủng đều thuộc về của chung và thuộc về toàn thể nhân loại một cách không phân biệt, và chỉ những người không xứng đáng mới là những người bị mất đi quyền thừa kế những của cải của nước Trời. « Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Kitô»[21].

2. Đó là tập hợp các quyền lợi và nghĩa vụ mà triết học Kitô giáo dạy. Chẳng phải người ta sẽ thấy sự xoa dịu diễn ra rất nhanh nếu những giáo huấn này có thể chiếm ưu thế trong các xã hội sao?

22. Giáo hội giáo dục con người. Các thể chế Kitô giáo đổi mới các xã hội.

1. Tuy nhiên, Giáo hội không hài lòng với việc chỉ ra phương thuốc được tìm thấy ở đâu, Giáo hội tự tay áp dụng nó cho căn bệnh. Giáo hội hoàn toàn bận tâm với việc giáo dục và nâng cao con người theo các nguyên tắc và học thuyết của mình. Giáo hội quan tâm đến việc truyền bá nguồn nước mang lại sự sống càng xa càng rộng rãi càng tốt, thông qua thừa tác vụ của các Giám mục và hàng giáo sĩ. Rồi, Giáo hội cố gắng đi sâu vào các tâm hồn để mọi người sẵn sàng để mình được hướng dẫn và cai trị bởi các giới luật của Thiên Chúa. Về điểm cơ bản và rất quan trọng này, bởi vì nó chứa đựng bản tóm tắt tất cả các lợi ích được đề cập, nên hành động của Giáo hội là rất công hiệu. Những công cụ mà Giáo hội sử dụng để chạm đến các tâm hồn đã được Chúa Giêsu Kitô ban cho Giáo hội vì mục đích này, và chúng mang trong mình một hiệu quả thần linh. Chúng là những công cụ duy nhất có khả năng đi sâu vào trái tim con người, những công cụ nhất nhất có khả năng dẫn dắt con người tuân theo những mệnh lệnh của bổn phận, làm chủ các đam mê của mình, yêu mến Thiên Chúa và người lân cận với một lòng bác ái đặc biệt và tột bậc, can đảm phá bỏ mọi trở ngại đang cản trở sự tiến bộ của họ trên con đường nhân đức.

2. Ở đây chỉ cần nhìn lại một cách nhanh chóng những ví dụ từ thời cổ đại là đủ. Những sự việc và sự kiện mà Ta sắp nhắc lại là không thể tranh cãi. Chẳng hạn, chắc chắn rằng xã hội dân sự của con người đã được các thể chế Kitô giáo đổi mới về cơ bản; sự đổi mới này có tác dụng nâng cao trình độ của loài người, hay nói đúng hơn là đưa họ từ sự chết đến sự sống, và đưa họ đến mức độ hoàn hảo cao đến mức chưa từng thấy điều gì cao hơn trước hoặc sau, và người ta sẽ không bao giờ thấy như thế trong suốt nhiều thế kỷ; và chắc chắn rằng cuối cùng chính Chúa Giêsu Kitô là nguyên lý của những lợi ích này và phải là cùng đích của chúng; bởi vì, cũng như mọi thứ đã xuất phát từ Người, thì mọi thứ đều phải được quy về Người. Do đó, khi Tin Mừng đã lan tỏa khắp thế giới, khi các dân tộc đã học được mầu nhiệm cao cả về Ngôi Lời nhập thể và ơn cứu chuộc con người, thì cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô, là Thiên Chúa và là người, đã xâm chiếm các xã hội và thấm nhuần vào họ hoàn toàn bằng đức tin, các giới răn và luật lệ của Người. Vì vậy, nếu xã hội loài người muốn được chữa lành, nó sẽ chỉ được chữa lành bằng cách quay trở lại với cuộc sống và các thể chế của Kitô giáo.

3. Bất cứ ai muốn tái tạo bất kỳ xã hội suy đồi nào, người ta đều có lý đòi hỏi đưa nó trở lại nguồn gốc của nó. Quả thế, sự hoàn hảo của bất kỳ xã hội nào đều hệ tại việc theo đuổi và đạt được mục đích mà nó đã được thành lập, để mọi chuyển động và mọi hành vi của đời sống xã hội đều phát sinh từ cùng một nguyên lý mà từ đó xã hội đã sinh ra. Do đó, đi chệch khỏi mục đích, đó là đi đến cái chết; trở lại với mục đích, đó là trở lại với sự sống.

23. Giáo hội chăm sóc cuộc sống trần thế bằng cách mời gọi hướng đến nhân đức.

1. Đừng ai nghĩ rằng Giáo hội quá chú trọng đến việc chăm sóc các linh hồn đến nỗi bỏ bê những gì liên quan đến cuộc sống trần gian và vật chất. Đối với giai cấp công nhân nói riêng, Giáo hội muốn đưa họ thoát khỏi cảnh khốn cùng và mang lại cho họ một cuộc sống tốt đẹp hơn, và Giáo hội nỗ lực hết sức để đạt được kết quả này.

2. Và chắc chắn, Giáo hội mang đến cho công việc này một trợ giúp rất hữu ích, chỉ qua việc ra sức, bằng lời nói và hành động, đưa con người trở lại với nhân đức. Ngay khi đạo đức Kitô giáo được vinh danh, nó sẽ tự nhiên phát huy phần ảnh hưởng ích lợi của mình đối với sự thịnh vượng trần thế. Thật vậy, nó thu hút được sự ưu ái của Thiên Chúa, là nguyên lý và nguồn gốc của mọi điều thiện hảo; nó ngăn chặn sự ham muốn quá mức về của cải và sự khao khát lạc thú[22], hai tai họa này quá thường ném cay đắng và ghê tởm vào chính giữa sự giàu sang; cuối cùng nó bằng lòng với một cuộc sống và lương thực thanh đạm, và bù đắp cho thu nhập ít ỏi thông qua tiết kiệm, gạt sang một bên những tật xấu tiêu tốn không chỉ những tài sản nhỏ, nhưng cả những tài sản lớn nhất, và làm tiêu tan những gia sản lớn nhất.

24. Giáo hội hỗ trợ các tầng lớp thua thiệt thông qua các tổ chức từ thiện.

1. Hơn nữa, Giáo hội vẫn trực tiếp mang lại hạnh phúc cho các tầng lớp thua thiệt, thông qua việc thành lập và hỗ trợ các tổ chức mà Giáo hội cho là có khả năng xoa dịu nỗi khốn cùng của họ. Về loại từ thiện này, Giáo hội thậm chí còn xuất sắc đến mức chính kẻ thù của Giáo hội cũng khen ngợi Giáo hội.

2. Vì vậy, nơi các Kitô hữu tiên khởi, tình bác ái hỗ tương của họ mạnh mẽ đến mức không hiếm khi thấy những người giàu nhất tự trút bỏ gia sản của mình để trợ giúp người nghèo. Do đó, « trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn »[23]. Các Tông đồ đã ủy thác việc phân phát bố thí hàng ngày cho các phó tế, mà chức vụ của họ đã được thiết lập đặc biệt cho mục đích này. Chính thánh Phaolô, mặc dù bận tâm đến mối quan tâm bao trùm tất cả các Giáo hội, đã không ngần ngại thực hiện những hành trình khó khăn để đích thân mang đến sự cứu trợ cho các Kitô hữu nghèo khổ. Sự giúp đỡ tương tự đã được các tín hữu đưa ra một cách tự phát trong mỗi cộng đoàn của họ. Tertullianô gọi sự trợ giúp này là kho báu của lòng đạo đức, vì nó được dùng để nuôi sống và chôn cất những người cơ cực, trẻ mồ côi nghèo khổ cả hai giới, các gia nhân già cả, các nạn nhân bị đắm tàu[24].

3. Như vậy dần dần đã hình thành gia sản, mà Giáo hội luôn bảo vệ một cách cẩn thận về mặt tôn giáo như là gia sản riêng của người nghèo. Giáo hội đã đi đến chỗ đảm bảo sự trợ giúp cho những người bất hạnh, giúp họ không phải xấu hổ khi chìa tay xin ăn. Người mẹ chung của người giàu và người nghèo này, tận dụng sự bộc phát tuyệt vời của lòng bác ái mà mình khơi dậy khắp nơi, đã thành lập các dòng tu và một loạt các tổ chức hữu ích khác vốn không để mặc hầu như bất kỳ loại đau khổ nào mà không được xoa dịu. Chắc chắn có một số người ngày nay, giống như những người ngoại giáo ngày xưa, đã đi đến mức biến ngay cả lòng bác ái tuyệt vời đó thành vũ khí để tấn công Giáo hội. Người ta đã thấy lòng từ thiện do luật dân sự thiết lập đã thay thế bác ái Kitô giáo. Nhưng bác ái Kitô giáo này, vốn cống hiến hết mình cho lợi ích của người lân cận mà không có động cơ thầm kín, không thể bị thay thế bởi bất kỳ tổ chức nào của con người. Chỉ có Giáo hội mới có được nhân đức này, vì chúng ta chỉ kín múc nó từ Thánh Tâm Chúa Giêsu Kitô, và xa rời Giáo hội của Chúa Giêsu Kitô chính là xa rời Người.

C- Vai trò của Nhà nước

25. Hành động chung của tất cả mọi người.

1. Tuy nhiên, để đạt được kết quả mong muốn, chắc chắn cần phải huy động thêm các phương tiện của con người. Do đó, tất cả những người liên quan đến vấn đề này đều phải hướng tới cùng một mục đích và cùng nhau làm việc, mỗi người trong lĩnh vực riêng của mình. Ở đây, như có một hình ảnh nào đó về Chúa Quan Phòng cai quản thế giới; bởi vì chúng ta thường thấy rằng các sự việc và biến cố vốn phụ thuộc vào các nguyên nhân khác nhau đều là kết quả của hành động chung của chúng.

2. Tuy nhiên, chúng ta có quyền mong đợi điều gì từ Nhà nước để khắc phục tình trạng này? Trước hết, chúng ta hãy ghi nhận rằng, qua Nhà nước, chúng ta hiểu ở đây không phải bất kỳ chính phủ nào được thành lập nơi một dân tộc cụ thể nào đó, mà là bất kỳ chính phủ nào đáp ứng các giới luật của lý trí tự nhiên và những giáo huấn thần linh, những giáo huấn mà chính Ta đã đặc biệt trình bày trong Thông điệp của Ta về Hiến chế Kitô giáo về các xã hội.

26. Phục vụ lợi ích chung.

1. Người đứng đầu nhà nước trước tiên phải mang lại sự hợp tác chung thông qua tất cả các luật lệ và thể chế. Ta muốn nói rằng họ phải hành động sao cho hiến pháp và việc quản lý xã hội khiến cho sự thịnh vượng phát triển một cách tự nhiên, cả công lẫn tư.

2. Quả thế, đây là vai trò của một chính khách khôn ngoan và là nghĩa vụ riêng của tất cả những người cai trị. Vậy mà, những gì làm nên một quốc gia thịnh vượng, đó là đạo đức trong sáng, các gia đình được thành lập trên nền tảng trật tự và luân lý, thực hành tôn giáo và tôn trọng công lý, đánh thuế vừa phải và phân bổ công bằng các trách nhiệm công cộng, sự tiến bộ của công nghiệp và thương mại, nền nông nghiệp thịnh vượng và các yếu tố tương tự khác, nếu đúng như thế, không thể được phát triển nếu không nâng cao phúc lợi và hạnh phúc của các công dân một cách tương ứng. Chính qua tất cả những phương tiện này mà Nhà nước có thể trở nên hữu ích cho các giai cấp khác, và đồng thời cải thiện đáng kể số phận của giai cấp thợ thuyền. Nhà nước sẽ làm như vậy với tất cả sự nghiêm khắc của luật pháp và không phải sợ bị chỉ trích về sự can thiệp, bởi vì, bằng vào trách vụ của mình, Nhà nước phải phục vụ lợi ích chung. Rõ ràng là những lợi ích thu được từ hành động chung này càng nhân lên, thì càng ít cần phải dùng đến các biện pháp khác để khắc phục tình trạng của người lao động.

27. Phân phối công bằng, trên cơ sở tư cách công dân chung.

1. Nhưng đây là một cân nhắc khác liên quan sâu xa hơn đến chủ đề của chúng ta. Lý do tồn tại của bất kỳ xã hội nào đều chỉ là một và chung cho tất cả các thành viên của nó, dù lớn hay nhỏ. Người nghèo, cũng như người giàu, đều là những công dân, do bởi quyền tự nhiên, nghĩa là thuộc số các bộ phận thực sự và sống động mà thông qua các gia đình, toàn bộ cơ thể của quốc gia được cấu thành. Nói cách chính xác, ở tất cả các thành phố, họ là số đông. Vì sẽ là vô lý nếu chỉ chi cấp cho một tầng lớp công dân này và bỏ mặc tầng lớp công dân khác, do đó rõ ràng nhà cầm quyền cũng phải thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ cuộc sống và lợi ích của giai cấp thợ thuyền. Nếu không làm tròn, nó sẽ vi phạm công lý chặt vốn đòi hỏi người ta phải trả cho mỗi người cái thuộc về họ. Về vấn đề này, thánh Tôma Aquinô đã nói một cách rất khôn ngoan: « Giống như bộ phận và tổng thể một cách nào đó chỉ là một, thì những gì thuộc về tổng thể một cách nào đó cũng thuộc về mỗi bộ phận[25]».

2. Đây là lý do tại sao trong số rất nhiều những nghĩa vụ nghiêm túc của nhà cầm quyền muốn cung cấp thích đáng cho lợi ích công cộng, nghĩa vụ chi phối tất cả những nghĩa vụ khác hệ tại việc chăm sóc bình đẳng cho mọi tầng lớp công dân, bằng cách tuân thủ nghiêm ngặt các luật lệ của công lý được gọi là phân phối.

3. Mọi công dân, không có ngoại lệ, đều phải đóng góp phần của mình vào khối tài sản chung, mà khối tài sản chung này, bằng sự hoàn trả tự nhiên, sẽ được phân phối lại cho các cá nhân. Tuy nhiên, những đóng góp tương ứng không thể giống nhau và cũng không thể có mức độ ngang nhau. Bất kể những thăng trầm mà các hình thức chính phủ đòi hỏi phải trải qua, sẽ luôn có sự bất bình đẳng về điều kiện giữa các công dân, mà nếu không có thì xã hội không thể tồn tại hoặc được hình thành. Bằng mọi giá, cần phải có những người cai trị, làm ra luật pháp, thực thi công lý, những người mà cuối cùng, bằng lời khuyên hoặc bằng thẩm quyền, quản lý các vấn đề hòa bình và chiến tranh. Chắc chắn, những người này phải có địa vị cao hơn trong bất kỳ xã hội nào và giữ vị trí hàng đầu, vì họ làm việc trực tiếp và hết mực cho công ích. Ngược lại, những người thực hiện một nghề nghiệp nào đó đều không thể góp vào công ích này, ở cùng mức độ và phương tiện như nhau.

4. Tuy nhiên, họ cũng phục vụ rất nhiều cho lợi ích của xã hội, mặc dù theo cách ít trực tiếp hơn. Chắc chắn, công ích mà việc đạt được nó phải có tác dụng hoàn thiện con người, chủ yếu là một thiện ích luân lý. Nhưng trong một xã hội được tổ chức tốt, vẫn phải có một lượng dồi dào nhất định về những của cải vật chất và « bên ngoài mà việc sử dụng nó được đòi hỏi để thực thi nhân đức[26]». Thế mà, trong quá trình sản xuất ra những của cải này, chính công việc của các thợ thuyền, làm việc trên đồng ruộng hay trong nhà máy, mới trước hết là nguyên nhân hữu hiệu và cần thiết. Hơn nữa, sức sản xuất của họ về mặt này mạnh đến mức người ta có thể khẳng định mà không e sợ rằng công việc của các thợ thuyền là nguồn duy nhất từ đó của cải của các Nhà nước phát xuất.

5. Do đó, công lý đòi hỏi Nhà nước phải quan tâm đến người lao động. Nhà nước phải đảm bảo rằng họ nhận được phần của cải phù hợp mà họ mang lại cho xã hội, chẳng hạn như nhà ở và quần áo, và họ có thể sống ít khó khăn và thiếu thốn hơn. Vì vậy, Nhà nước phải tạo thuận lợi cho tất cả những gì, gần hay xa, có vẻ có khả năng cải thiện số phận của họ. Mối quan tâm này, không gây hại cho ai, trái lại sẽ mang lại lợi ích cho tất cả mọi người, bởi vì điều tối quan trọng đối với quốc gia là, những người, đối với quốc gia, vốn là nguyên lý của những của cải không thể thiếu như vậy, sẽ không thấy mình phải vật lộn với sự khốn khổ từ mọi phía.

28. Nhà cầm quyền, người bảo vệ an toàn công cộng và tư nhân.

Bình thường, như Ta đã nói, cả cá nhân và gia đình đều không được Nhà nước làm tiêu tan. Thật công bằng khi cả hai đều phải có khả năng hành động một cách tự do bao lâu điều này không gây tổn hại đến công ích và không làm hại bất kỳ ai. Tuy nhiên, việc chăm sóc cộng đồng và các bộ phận của nó thuộc về nhà cầm quyền; cộng đồng vì tự nhiên đã giao phó việc giữ gìn nó cho quyền bính tối cao, đến nỗi an toàn công cộng ở đây không chỉ là luật tối cao, mà còn chính là nguyên nhân và lý do tồn tại của quyền bính dân sự; các bộ phận, bởi vì, theo luật tự nhiên, chính phủ không được nhắm đến lợi ích của những người có quyền lực trong tay họ, nhưng là lợi ích của những người phục tùng họ. Đó là giáo huấn của triết học và đức tin Kitô giáo. Hơn nữa, mọi quyền bính đều đến từ Thiên Chúa và là sự tham dự vào quyền bính tối cao của Ngài. Từ đó, những người được giao phó quyền bính phải thực thi nó theo gương Thiên Chúa, Đấng mà mối quan tâm phụ tử của Ngài không chỉ mở rộng cho toàn thể, mà còn cho mỗi thụ tạo. Do đó, nếu các lợi ích chung, hoặc lợi ích của một giai cấp cụ thể, bị tổn hại hoặc đơn giản là bị đe dọa, và nếu không thể khắc phục hoặc ngăn ngừa chúng, thì nhất thiết phải nhờ đến nhà cầm quyền.

29. Quyền và nghĩa vụ của Nhà nước can thiệp đặc biệt để bảo vệ người lao động.

1. Hiện nay, điều quan trọng đối với an toàn công cộng và tư nhân là trật tự và hòa bình ngự trị ở khắp mọi nơi; toàn bộ kinh tế của đời sống gia đình phải được điều chỉnh theo các giới răn của Thiên Chúa và các nguyên tắc của luật tự nhiên; tôn giáo phải được tôn vinh và tuân thủ; đạo đức riêng tư và công cộng được phát triển; công lý phải được bảo vệ một cách nghiêm túc và giai cấp này không bao giờ có thể áp bức giai cấp khác mà không bị trừng phạt; các thế hệ mạnh mẽ ngày càng có khả năng trở thành chỗ dựa và, nếu cần, là thành trì của quê hương. Đây là lý do tại sao, nếu xảy ra trường hợp giới thợ thuyền, khi bỏ việc hoặc đình chỉ công việc bằng các cuộc đình công, sẽ đe dọa sự yên bình công cộng; mối liên kết tự nhiên của gia đình bị suy yếu giữa những người lao động; tôn giáo của giới thợ thuyền bị chà đạp dưới chân, bằng cách không tạo điều kiện thuận lợi cho họ thực hiện nghĩa vụ đối với Thiên Chúa; sự chung chạ giữa các giới tính, hoặc những hành vi xúi giục làm điều xấu khác tạo thành mối nguy hiểm cho luân lý trong các nhà máy; những ông chủ đè bẹp người lao động dưới sức nặng của những gánh nặng bất công, hoặc làm nhục nhân vị nơi họ bằng những điều kiện không xứng đáng và hèn hạ; họ gây tổn hại cho sức khỏe của người lao động bằng công việc quá sức và không tương xứng với độ tuổi và giới tính của họ; trong tất cả các trường hợp này, tuyệt đối phải áp dụng sức mạnh và thẩm quyền của luật pháp trong những giới hạn nhất định. Lý do thúc đẩy sự can thiệp của luật pháp quyết định giới hạn của nó: nghĩa là luật pháp không được tiến tới hoặc làm bất cứ điều gì vượt quá mức cần thiết để khắc phục sự dữ và tránh nguy hiểm. Các quyền lợi phải được tôn trọng ở mọi nơi một cách nghiêm túc. Nhà nước phải bảo vệ chúng nơi mọi công dân, bằng cách ngăn chặn hoặc trừng phạt việc vi phạm chúng.

2. Tuy nhiên, trong việc bảo vệ các quyền riêng tư, Nhà nước phải quan tâm đặc biệt đến những người yếu thế và cơ cực. Tầng lớp giàu có trở nên như một bức tường thành cho sự giàu có của mình và ít cần sự bảo trợ công cộng hơn. Ngược lại, những người nghèo không có của cải để bảo vệ họ khỏi những bất công, trước hết trông cậy vào sự bảo vệ của Nhà nước. Do đó, Nhà nước phải quan tâm và chăm sóc đặc biệt đối với những người lao động thuộc đám đông thiệt thòi.

30. Bảo vệ đạo đức và tài sản tư nhân.

Nhưng sẽ tốt hơn khi giải quyết riêng biệt một số điểm có tầm quan trọng lớn nhất. Trước hết, công pháp phải bảo vệ và đảm bảo an toàn cho tài sản tư nhân. Điều quan trọng hơn hết, giữa lòng tham tràn lan như vậy, đó là giữ người dân tuân theo nghĩa vụ. Họ được phép phấn đấu hướng tới những số phận tốt đẹp hơn trong giới hạn của công lý. Nhưng việc cưỡng bức tước đoạt tài sản của tha nhân, xâm chiếm tài sản của người khác với cái cớ bình đẳng phi lý là những điều mà công lý lên án và chính lợi ích chung cũng bác bỏ. Chắc chắn, đại đa số người lao động muốn cải thiện số phận của mình thông qua công việc trung thực và bên ngoài mọi bất công. Nhưng có nhiều người, thấm nhuần những học thuyết sai lầm và tham vọng những điều mới mẻ, đã làm mọi cách để kích động bạo loạn và dẫn người khác đến bạo lực. Khi đó nhà cầm quyền phải can thiệp. Kìm hãm sự kích động của những kẻ cầm đầu, họ sẽ bảo vệ đạo đức của giới thợ thuyền chống lại các mưu mẹo tham nhũng và bảo vệ tài sản hợp pháp trước nguy cơ cướp bóc.

31. Ngăn ngừa các cuộc đình công.

1. Không hiếm khi một công việc quá kéo dài hoặc quá nặng nhọc và mức lương được coi là quá thấp dẫn đến sự kiện nghỉ việc có chủ ý và có phối hợp mà chúng ta gọi là đình công. Đối với vết thương này, rất phổ biến nhưng đồng thời cũng rất nguy hiểm, việc đưa ra phương dược là thuộc về nhà cầm quyền. Quả thế, tình trạng nghỉ việc này không chỉ gây bất lợi cho chính ông chủ và chính người lao động, mà còn cản trở thương mại và gây tổn hại đến lợi ích chung của xã hội. Vì chúng dễ dàng biến thành bạo lực và hỗn loạn, nên sự yên bình công cộng thường bị tổn hại.

2. Nhưng ở đây, sẽ hiệu quả và hữu ích hơn khi thẩm quyền của pháp luật ngăn ngừa sự dữ và ngăn chặn nó xảy ra, bằng cách loại bỏ một cách khôn ngoan những nguyên nhân có vẻ như có thể kích động xung đột giữa chủ và thợ.

32. Tôn trọng phẩm giá con người. Đảm bảo nghỉ ngơi hàng tuần.

1. Nơi người lao động cũng thế, có rất nhiều lợi ích cần được Nhà nước bảo vệ. Đầu tiên là những gì liên quan đến lợi ích linh hồn của họ.

2. Quả thế, đời sống thân xác, dù quý giá và đáng ao ước đến đâu, cũng không phải là mục đích cuối cùng của cuộc sống chúng ta. Nó là con đường và phương tiện để đạt tới sự hoàn hảo của đời sống linh hồn, nhờ hiểu biết sự thật và lòng yêu mến sự thiện. Chính linh hồn mang trong mình hình ảnh và giống như Thiên Chúa. Chính nơi nó mà con người được trao cho quyền tối thượng này khi họ nhận được lệnh chinh phục thiên nhiên thấp kém và đặt trái đất và đại dương phục vụ mình. « Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất[27]».

3. Từ quan điểm này, mọi người đều bình đẳng; không phân biệt giàu và nghèo, chủ và tớ, vua chúa và thần dân: « Tất cả đều có cùng một Chúa [28]». Không ai được phép vi phạm phẩm giá này của con người mà không bị trừng phạt, phẩm giá mà chính Thiên Chúa đối xử hết sức tôn trọng, cũng như không được cản trở sự tiến bước của con người hướng tới sự hoàn thiện vốn là sự chuẩn bị cho sự sống vĩnh cửu và thiên giới. Hơn nữa, về mặt này, con người thậm chí không được tùy ý tự động vi phạm nhân phẩm của mình, hoặc mong muốn nô lệ hóa linh hồn mình. Quả thế, đó không phải là những quyền lợi mà họ có quyền tự do sử dụng, nhưng là những nghĩa vụ đối với Thiên Chúa mà họ phải chu toàn về mặt tôn giáo.

4. Từ đó nảy sinh nhu cầu nghỉ ngơi và ngừng làm việc trong ngày của Chúa. Vả lại, không được hiểu sự nghỉ ngơi như là dành phần lớn hơn cho sự lười biếng vô ích, và càng không phải là thời gian nghỉ việc sinh ra tệ nạn và phung phí tiền lương như nhiều người mong muốn, nhưng là một sự nghỉ ngơi được tôn giáo thánh hóa. Do đó, được kết hợp với tôn giáo, sự nghỉ ngơi kéo con người ra khỏi những lao nhọc và lo lắng của cuộc sống hàng ngày. Nó hướng suy nghĩ của con người đến những sự trên trời và mời gọi họ bày tỏ lòng tôn thờ đối với Thiên Chúa của mình mà họ phải trả. Nhất là, đây là đặc điểm và lý do của sự nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy mà Thiên Chúa, trong Cựu Ước, đã biến thành một trong những điều khoản chính của lề luật: « Ngươi hãy nhớ ngày sabát, mà coi đó là ngày thánh[29]», và chính Ngài đã nêu gương về điều đó bằng sự nghỉ ngơi huyền nhiệm được thực hiện ngay sau khi Ngài tạo dựng con người: « Khi làm xong mọi công việc của Người, ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi[30]».

33. Xác định điều kiện lao động theo giới tính, độ tuổi, sức khỏe. Thời gian lao động.

1. Đối với lợi ích vật chất và thể lý, trước hết nhà cầm quyền phải bảo vệ chúng bằng cách kéo người lao động bất hạnh ra khỏi tay kẻ đầu cơ, những kẻ không phân biệt giữa con người và máy móc, lạm dụng con người của họ một cách không giới hạn để thỏa mãn lòng tham vô độ. Đòi hỏi một khối lượng công việc đè bẹp thể xác và tiêu hao sức lực của nó đến mức kiệt sức cũng như làm cùn mòn mọi năng lực của tâm hồn, là một hành vi mà cả công lý lẫn nhân tính đều không thể dung thứ được. Hoạt động của con người, cũng hạn chế như bản tính của mình, có những giới hạn mà nó không thể vượt qua. Chắc chắn nó phát triển thông qua tập luyện và thói quen, nhưng với điều kiện là nó được tạm dừng và có khoảng cách nghỉ ngơi. Vì vậy, số giờ trong ngày làm việc không được vượt quá giới hạn sức lực của người lao động, và khoảng cách nghỉ ngơi phải tương xứng với bản chất của công việc và sức khỏe của người lao động, và được điều chỉnh theo hoàn cảnh thời gian và địa điểm. Những người thợ làm việc trong các hầm mỏ và khai thác than, đá và kim loại từ lòng đất nên có thời gian làm việc ngắn hơn cân xứng vì công việc của họ nặng nhọc và mệt mỏi cho sức khỏe hơn. Vả lại, cũng công bằng việc người ta xem xét các thời điểm trong năm. Công việc như vậy thường dễ dàng trong mùa này, nhưng lại trở nên khó chịu hoặc rất khó khăn trong mùa khác.

2. Cuối cùng, những gì một người đàn ông khỏe mạnh đang ở độ tuổi sung mãn có thể đạt được, không thể đòi hỏi một cách công bằng ở một phụ nữ hay một trẻ em. Đặc biệt, trẻ em – và điều này đòi hỏi được tuân thủ nghiêm ngặt – chỉ được vào nhà máy sau khi tuổi tác đã phát triển đầy đủ các sức lực thể chất, trí tuệ và luân lý nơi chúng. Nếu không, giống như một ngọn cỏ còn non, chúng sẽ héo úa bởi một công việc quá sớm và việc giáo dục của chúng sẽ kết thúc. Tương tự như vậy, có những công việc ít phù hợp với phụ nữ hơn mà bản tính vốn dành cho công việc gia đình nhiều hơn; vả lại, đó là những công việc vốn bảo vệ một cách tuyệt vời danh dự giới tính của họ và đáp ứng tốt hơn, về bản chất, những gì mà việc giáo dục tốt cho con cái và sự thịnh vượng của gia đình đòi hỏi.

3. Nói chung, thời gian nghỉ ngơi phải được đo lường theo mức tiêu hao sức lực mà nó phải phục hồi. Quyền nghỉ ngơi hàng ngày cũng như quyền ngừng làm việc vào ngày của Chúa phải là điều kiện rõ ràng hoặc ngầm định của bất kỳ hợp đồng nào được ký kết giữa chủ và thợ. Ở đâu điều kiện này không được đưa vào, hợp đồng sẽ không trung thực, bởi vì không ai có thể đòi hỏi hoặc cho phép việc vi phạm nghĩa vụ của con người đối với Thiên Chúa và đối với chính mình.

34. Đảm bảo xác định mức lương công bằng.

1. Bây giờ chúng ta chuyển sang một điểm khác của vấn đề, có tầm quan trọng lớn lao, mà để tránh bất kỳ sự cường điệu nào, cần phải được xác định một cách chính xác. Ta muốn nói về việc xác định mức lương.

2. Người ta cho rằng mức lương mà hai bên đã tự do thỏa thuận, thì ông chủ trả lương đã thực hiện đầy đủ mọi cam kết của mình và không còn buộc phải làm gì nữa. Công lý sẽ chỉ bị tổn hại nếu ông chủ từ chối thanh toán tất cả hoặc nếu người lao động từ chối hoàn thành mọi công việc và đáp ứng các cam kết của mình. Trong những trường hợp này, nhà cầm quyền sẽ phải can thiệp để bảo vệ quyền lợi của mỗi người, nhưng không phải dưới bất kỳ trường hợp nào.

3. Lý luận như vậy sẽ không tìm được một thẩm phán công minh nào hoàn toàn đồng ý tuân theo. Nó không xem xét tất cả các khía cạnh của vấn đề và bỏ qua một khía cạnh rất nghiêm trọng. Lao động, đó là thực hiện hoạt động của mình nhằm kiếm được những gì cần thiết cho những nhu cầu khác nhau của cuộc sống, nhưng trên hết là để duy trì chính cuộc sống. « Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn[31]». Đây là lý do tại sao lao động đã nhận được từ tự nhiên một dấu ấn kép. Nó mang tính cá nhân, bởi vì sinh lực gắn liền với con người và nó là tài sản của người thực hiện nó và đã nhận nó vì sự hữu ích của họ. Nó cần thiết vì con người cần thành quả lao động của mình để bảo tồn cuộc sống của mình và con người phải bảo tồn nó để tuân theo những mệnh lệnh không thể bác bỏ của tự nhiên. Bây giờ, nếu chỉ nhìn lao động từ khía cạnh cá nhân, thì chắc chắn người lao động sẽ có quyền chấp nhận bất kỳ mức lương nào. Vì cũng như việc họ được tự do làm việc hay không, cũng thế họ được tự do chấp nhận một mức lương nhỏ hoặc thậm chí không đòi hỏi đồng lương nào. Nhưng sẽ hoàn toàn khác nếu người ta thêm vào đặc tính nhân cách này đặc tính cần thiết mà tư duy có thể dễ dàng trừu tượng hóa, nhưng lại không thể tách rời trong thực tế. Thật vậy, bảo tồn cuộc sống là một nghĩa vụ bó buộc đối với tất cả mọi người và họ không thể thoát khỏi đó mà không có tội. Từ nghĩa vụ này nhất thiết phải có quyền kiếm được những thứ cần thiết cho sinh kế, mà người nghèo chỉ có thể có được thông qua tiền lương lao động của họ.

4. Do đó, chủ và thợ cứ tự do thỏa thuận, họ cứ đạt được thỏa thuận đặc biệt là về mức lương. Tuy nhiên, bên trên ý chí tự do của họ, có một luật công lý tự nhiên cao hơn và xa xưa hơn, đó là tiền lương không được thiếu để giúp người thợ thanh đạm và trung thực sống được. Nếu, bị ép buộc bởi sự cần thiết hoặc bị thúc đẩy bởi nỗi sợ hãi về một cái xấu lớn hơn, người thợ phải chấp nhận những điều kiện khắc nghiệt mà họ không thể từ chối, bởi vì những điều kiện đó do ông chủ hoặc người giao việc áp đặt cho họ, thị họ sẽ phải chịu đựng một bạo lực mà công lý phản đối.

5. Nhưng, trong những trường hợp này và những trường hợp tương tự khác, liên quan đến ngày làm việc và việc chăm sóc sức khỏe của thợ thuyền trong các nhà máy, nhà cầm quyền có thể can thiệp một cách không phù hợp, đặc biệt là vì sự đa dạng của các hoàn cảnh về thời gian và địa điểm. Do đó, trên nguyên tắc, tốt hơn là dành giải pháp cho các nghiệp đoàn hoặc công đoàn mà Ta sẽ nói đến sau, hoặc sử dụng phương tiện nào khác để bảo vệ lợi ích của người lao động, và thậm chí phó thác, nếu cần thiết, cho sự bảo vệ và hỗ trợ của Nhà nước.

35. Phát triển tinh thần quyền sở hữu, đặc biệt trong quần chúng nhân dân. Lợi ích cho toàn xã hội.

1. Người lao động nhận được mức lương khá cao để dễ dàng đáp ứng nhu cầu của mình và của gia đình mình, nếu khôn ngoan, sẽ cố gắng tiết kiệm. Theo lời khuyên mà chính tự nhiên dường như dành cho họ, thông qua tiết kiệm khôn ngoan, họ sẽ nhắm để dành cho mình một ít dư thừa, điều này sẽ cho phép một ngày nào đó họ có được một di sản khiêm tốn. Quả thế, Ta đã thấy rằng vấn đề hiện tại không thể có được một giải pháp thực sự hữu hiệu nếu không bắt đầu bằng việc nêu bật tính bất khả xâm phạm của quyền tư hữu như là nguyên tắc cơ bản. Vì vậy, điều quan trọng là pháp luật phải thúc đẩy tinh thần quyền sở hữu, đánh thức và phát triển nó càng nhiều càng tốt trong quần chúng nhân dân.

2. Kết quả này, một khi đạt được, sẽ là nguồn gốc của những lợi ích quý giá nhất. Và trước tiên, việc phân phối của cải chắc chắn sẽ công bằng hơn. Bạo lực của những biến động xã hội đã chia rẽ cơ thể xã hội thành hai giai cấp và tạo ra một hố sâu thẳm giữa họ. Một mặt, một phe phái có toàn quyền nhờ sự giàu có của nó. Là chủ nhân tuyệt đối của nền công nghiệp và thương mại, nó chuyển hướng dòng của cải và khiến mọi nguồn giàu sang đều đổ về phía nó. Nó cũng nắm trong tay nhiều hơn một thẩm quyền quản lý hành chính công. Mặt khác, một đám đông cơ cực và yếu đuối, tâm hồn đầy hận thù, luôn sẵn sàng rối loạn. Nếu người ta khuyến khích hoạt động khéo léo của người dân bằng triển vọng được tham gia vào quyền sở hữu đất đai, thì người ta sẽ dần dần chứng kiến lấp đầy vực thẳm ngăn cách sự giàu có cực độ với nghèo đói cực độ, và sự xích lại gần nhau của hai giai cấp.

3. Vả lại, trái đất sẽ sản xuất ra mọi thứ một cách dồi dào hơn. Bởi vì con người được tạo dựng đến mức ý nghĩ làm việc cho một quỹ của riêng mình sẽ làm tăng gấp đôi niềm hăng say và sự chăm chỉ của họ. Họ thậm chí còn đi đến chỗ đặt cả trái tim mình vào mảnh đất mà họ đã tự mình trồng trọt, vốn hứa hẹn cho họ và người thân không chỉ cái cần thiết tối thiểu, mà còn cả sự sung túc nào đó. Mọi người đều có thể dễ dàng nhận thấy những tác động tích cực của hoạt động tăng gấp đôi này đối với sự phong nhiêu của trái đất và sự giàu có của đất nước.

4. Lợi ích thứ ba sẽ là dừng phong trào di cư. Quả thế, không ai đồng ý đổi tổ quốc và quê hương của mình lấy một vùng đất xa lạ nếu họ tìm thấy ở quê hương mình những phương tiện để sống một cuộc sống dễ chịu hơn.

5. Nhưng có một điều kiện thiết yếu để tất cả những lợi ích này trở thành hiện thực. Quyền tư hữu không được bị cạn kiệt bởi phí và thuế quá mức. Sở hữu cá nhân phát sinh không phải từ luật pháp của con người, nhưng từ tự nhiên. Do đó, nhà cầm quyền không thể bãi bỏ nó. Họ chỉ có thể tiết chế việc sử dụng nó và dung hòa nó với công ích. Do đó, họ hành động ngược lại công lý và nhân tính khi dưới danh nghĩa thuế, họ bắt phải chịu một thứ thuế quá mức lên tài sản của các cá nhân.

D – Các nghiệp đoàn

36. Ảnh hưởng ích lợi của chúng trong xã hội.

1. Cuối cùng, bản thân chủ và thợ có thể giúp đỡ rất nhiều để giải quyết vấn đề bằng tất cả những công việc có khả năng đỡ đần cảnh nghèo khổ một cách hiệu quả và gắn kết hai giai cấp lại với nhau. Trong số này có các xã hội hỗ trợ lẫn nhau; các tổ chức khác nhau, do sáng kiến ​​tư nhân, vốn có mục đích giúp đỡ người lao động cũng như các góa phụ và trẻ mồ côi của họ, trong trường hợp tử vong, tai nạn hoặc bệnh tật; các hội bảo trợ được thành lập để bảo vệ trẻ em cả hai giới, thanh thiếu niên và người lớn. Nhưng vị trí đầu tiên thuộc về các nghiệp đoàn công nhân, những nghiệp đoàn này tự mình bao quát hầu hết mọi công việc.

2. Tổ tiên của chúng ta từ lâu đã nghiệm thấy ảnh hưởng ích lợi của các nghiệp đoàn này. Trước tiên, họ đã đảm bảo với người lao động về những lợi ích rõ ràng. Hơn nữa, như nhiều di tích đang minh chứng, họ là nguồn vinh quang và sự tiến bộ cho chính nghệ thuật. Ngày nay, các thế hệ có học thức hơn, đạo đức được khai hóa hơn, những đòi hỏi của đời thường ngày càng nhiều. Do đó, chắc chắn các nghiệp đoàn phải thích ứng với những điều kiện mới này. Ta cũng vui mừng khi thấy những xã hội kiểu này được hình thành ở khắp nơi, hoặc chỉ bao gồm công nhân, hoặc hỗn hợp, tập hợp cả chủ và thợ. Điều mong muốn là họ sẽ tăng số lượng và hiệu quả hoạt động của mình.

3. Mặc dù Ta đã quan tâm đến họ nhiều lần, nhưng Ta muốn trình bày ở đây cơ hội và quyền tồn tại của họ, đồng thời chỉ ra làm thế nào họ nên được tổ chức và chương trình hành động của họ nên như thế nào.

37. Các xã hội tư nhân có mục đích hạn chế.

1. Kinh nghiệm của con người về sức lực hạn hẹp của mình buộc và thúc đẩy họ tìm kiếm sự hợp tác với bên ngoài. Chính trong Thánh Kinh mà chúng ta đọc được câu châm ngôn này: « Hai người thì hơn một, vì hai người làm việc cực khổ sẽ thu nhập khá hơn. Người này ngã đã có người kia nâng dậy. Nhưng khi chỉ có một mình mà bị ngã thì thật là khốn, vì chẳng có ai nâng dậy cả[32]». Còn câu này nữa: « Một người anh em được người anh em mình giúp đỡ thì còn hơn một thành trì vững chắc[33]». Từ xu hướng tự nhiên này, cũng như từ cùng một mầm mống, trước tiên xã hội dân sự được sinh ra, sau đó bên trong chính xã hội này, những xã hội khác, mặc dù bị hạn chế và không hoàn hảo, vẫn là những xã hội thực sự.

2. Giữa những xã hội nhỏ này và xã hội lớn, có những khác biệt sâu xa, do bởi mục đích trực tiếp của chúng. Mục đích của xã hội dân sự bao trùm toàn bộ mọi công dân. Nó hệ tại ở công ích, nghĩa là ở một thiện ích mà tất cả mọi người và mỗi người đều có quyền tham gia trong một mức độ tương xứng. Đây là lý do tại sao nó được gọi là « công vì nó gắn kết mọi người lại với nhau để tạo thành một quốc gia[34]». Ngược lại, các xã hội được thành lập trong xã hội dân sự này được coi là . Quả thế, họ tồn tại vì lý do tồn tại tức thời của họ là lợi ích đặc biệt dành riêng cho các thành viên của họ. « Xã hội tư là xã hội được thành lập với mục đích tư, như khi hai hoặc ba người liên kết với nhau để cùng thực hiện hoạt động kinh doanh[35]».

38. Thông thường Nhà nước không thể cấm các xã hội tư.

1. Các xã hội tư chỉ tồn tại trong xã hội dân sự, trong đó họ là một bộ phận. Tuy nhiên, chỉ nói khái quát và chỉ xem xét bản chất của họ, không có nghĩa là Nhà nước có quyền phủ nhận sự tồn tại của họ. Quyền tồn tại đã được chính tự nhiên ban tặng cho họ, và xã hội dân sự đã được thành lập để bảo vệ quyền tự nhiên, chứ không phải để phá hủy nó. Đây là lý do tại sao một xã hội dân sự cấm các xã hội tư sẽ tự tấn công chính mình, vì tất cả các xã hội, công và tư, đều có nguồn gốc từ cùng một nguyên lý, đó là tính xã hội tự nhiên của con người.

2. Chắc chắn, có những trường hợp cho phép luật pháp phản đối việc hình thành các xã hội kiểu này. Nếu một xã hội, theo điều lệ của mình, theo đuổi một mục đích đối lập rõ ràng với tính chính trực, với công lý, với an ninh của Nhà nước, thì nhà cầm quyền sẽ có quyền ngăn chặn việc thành lập xã hội đó, và, nếu nó đã được thành lập, thì có quyền giải thể nó. Nhưng ít ra trong tất cả những điều đó, nhà cầm quyền chỉ cần phải hành động một cách hết sức thận trọng. Cần phải tránh xâm phạm quyền của công dân và, cần phải tránh, dưới chiêu bài lợi ích công cộng, đưa ra một quyết định có thể bị lý trí lên án. Một luật lệ chỉ đáng được tuân theo miễn là nó phù hợp với lý trí ngay thẳng và do đó phù hợp với luật vĩnh cửu của Thiên Chúa[36].

39. Trường hợp các dòng tu.

Ở đây, Ta nghĩ đến các huynh đoàn, các hội dòng và các dòng tu đủ loại, mà thẩm quyền của Giáo hội và lòng đạo đức của các tín hữu đã khai sinh ra chúng. Lịch sử cho đến nay đã cho chúng ta biết đủ về những hoa trái của họ đối với ơn cứu độ của loài người. Chỉ đơn giản xét theo lý trí, những xã hội này dường như được thành lập vì một mục đích chính trực và do đó, được thành lập dựa trên quyền tự nhiên. Về vấn đề tôn giáo, họ chỉ thuộc quyền của Giáo hội. Do đó, nhà cầm quyền không thể tham vọng một cách hợp pháp bất kỳ quyền nào đối với họ, cũng như không tự nhận về mình quyền quản lý họ. Nhiệm vụ của công quyền đúng hơn là tôn trọng họ, bảo vệ họ và, nếu cần, bênh vực họ. Tuy nhiên, chính điều hoàn toàn ngược lại mà Ta đã thấy, đặc biệt là trong thời gian gần đây. Ở nhiều quốc gia, Nhà nước đã ra tay bạo lực đối với những xã hội này và gây ra nhiều bất công đối với họ: bắt phục tùng luật dân sự, tước bỏ quyền chính đáng về tư cách pháp nhân, chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, Giáo hội có quyền đối với những tài sản này; mỗi thành viên đều có tài sản riêng của họ; những người cho đã ấn định mục đích sử dụng cho chúng, và cuối cùng những người nhận được sự giúp đỡ và cứu trợ từ họ cũng có mục đích sử dụng của mình. Do đó, Ta không thể không lấy làm tiếc những hành vi chiếm đoạt rất bất công và nguy hại như vậy; hơn thế nữa vì các xã hội Công giáo đang bị cấm đoán vào đúng thời điểm tính hợp pháp của các xã hội tư nhân đang được khẳng định, và những gì đang bị từ chối đối với những người ôn hòa và chỉ quan tâm đến lợi ích công cộng, lại được trao, và chắc chắn là rất rộng rãi, cho những người đang nuôi dưỡng trong tâm trí họ những kế hoạch gây tai hại cho cả tôn giáo và Nhà nước.

40. Sự lựa chọn khó khăn của người lao động Kitô hữu khi phải đối mặt với một số hiệp hội.

Chắc chắn là chưa bao giờ, trong bất kỳ thời đại nào khác, người ta thấy có sự đa dạng lớn như vậy của các loại hiệp hội, đặc biệt là các hiệp hội công nhân. Ở đây không phải là nơi để tìm hiểu nguồn gốc của nhiều hiệp hội trong số họ, mục tiêu và cách họ đạt được nó. Nhưng theo một ý kiến, được xác nhận bởi nhiều dấu hiệu, các hiệp hội này thường bị cai trị bởi những nhà lãnh đạo bí ẩn, và họ tuân theo một khẩu hiệu thù địch với danh nghĩa Kitô giáo và an ninh của các quốc gia; sau khi chiếm đoạt tất cả các doanh nghiệp, nếu có người lao động nào từ chối gia nhập họ, thì họ sẽ bắt phải đền tội cho sự khước từ của những người này bằng sự khốn khổ. Trong tình trạng này, các công nhân Kitô hữu chỉ phải lựa chọn giữa hai bên: hoặc tham gia các hiệp hội mà tôn giáo của họ sẽ gặp nguy hiểm, hoặc tự tổ chức và hợp lực để có thể mạnh dạn rũ bỏ cái ách rất bất công và không thể chịu được. Có người nào thực sự tha thiết cứu lợi ích tột bậc của nhân loại khỏi mối nguy hiểm sắp xảy ra mà có thể nghi ngờ rằng cần phải chọn bên thứ hai này?

41. Các nghiệp đoàn Kitô giáo.

1. Như thế, cần phải đánh giá cao lòng nhiệt thành của đông đảo Kitô hữu của chúng ta, những người hoàn toàn nhận thức về các nhu cầu của thời hiện tại, cẩn thận thăm dò thực địa, tìm ra con đường chính trực dẫn đến sự phục hồi của giai cấp công nhân. Tự coi mình là những người bảo vệ người lao động, họ nghiên cứu để tăng cường sự thịnh vượng của người lao động, cả gia đình và cá nhân, điều chỉnh một cách công bằng các mối quan hệ hỗ tương giữa chủ và thợ, duy trì và củng cố lẫn nhau trong việc ghi nhớ các nhiệm vụ của họ cũng như việc tuân thủ các giới luật Tin Mừng; những giới luật mà, khi đưa con người trở lại sự điều độ và lên án mọi sự thái quá, sẽ duy trì sự hòa hợp và hài hòa hoàn hảo nhất, ở các quốc gia và trong số các yếu tố rất đa dạng của con người và sự vật. Dưới sự thúc đẩy của cùng những suy nghĩ, những người xuất chúng thường xuyên gặp nhau tại các hội nghị để truyền đạt cho nhau quan điểm của mình, đoàn kết sức lực của họ và quyết định các chương trình hành động thích hợp. Những người khác phụ trách việc thành lập các nghiệp đoàn phù hợp với các ngành nghề khác nhau, và đưa người lao động vào đó; họ giúp đỡ những người lao động này bằng lời khuyên và tài sản của họ, đồng thời đảm bảo rằng những người này không bao giờ thiếu công việc chính trực và hiệu quả.

2. Về phần mình, các Giám mục khuyến khích những nỗ lực này và đặt chúng dưới sự bảo trợ cao độ của các ngài. Bằng thẩm quyền và dưới sự bảo trợ của các ngài, các thành viên hàng giáo sĩ, cả triều lẫn dòng, cống hiến hết mình cho lợi ích thiêng liêng của các hội viên.

3. Cuối cùng, không thiếu những người Công giáo, được phú cho của cải dồi dào, nhưng một cách nào đó đã trở thành những người bạn đồng hành tự nguyện của những người lao động, đã không tiếc tiền để thành lập và mở rộng các hiệp hội ở xa, nơi mà người lao động có thể tìm thấy sự bảo đảm về một sự nghỉ ngơi vừa phải trong tương lai, cùng với sự thoải mái nào đó trong hiện tại.

4. Những nỗ lực, rất đa dạng và rất háo hức, đã đạt được những lợi ích rất đáng kể và quá nổi tiếng nơi các dân tộc đến mức cần phải nói về chúng một cách chi tiết. Đối với Ta, đó là điềm lành cho tương lai. Ta mong mỏi những thành quả mỹ mãn nhất từ ​​những nghiệp đoàn này, miễn là họ tiếp tục phát triển, và sự khôn ngoan thận trọng luôn chi phối tổ chức của họ. Ước mong Nhà nước bảo vệ những xã hội được thành lập theo pháp luật này; tuy nhiên, nó đừng can thiệp vào việc điều hành nội bộ của họ, và không chạm vào những thẩm quyền riêng tư vốn mang lại sự sống cho họ; bởi vì sự chuyển động cốt tử chủ yếu bắt nguồn từ một nguyên lý bên trong và rất dễ dàng bị dập tắt dưới tác động của một nguyên nhân bên ngoài.

42. Việc tổ chức các nghiệp đoàn.

1. Để có được sự thống nhất trong hành động và sự hòa hợp của các ý chí, các nghiệp đoàn này rõ ràng cần một tổ chức và kỷ luật khôn ngoan và thận trọng. Do đó, nếu chắc chắn rằng công dân được tự do liên kết, thì họ cũng phải được tự do đưa ra cho mình những điều lệ và quy định mà họ thấy phù hợp nhất với mục tiêu mà họ đang theo đuổi. Ta không tin rằng người ta có thể đưa ra những quy tắc chắc chắn và chính xác để xác định chi tiết của các điều lệ và quy định này. Mọi thứ đều phụ thuộc vào thiên tài của mỗi quốc gia, vào những thử nghiệm đã thực hiện và kinh nghiệm thu được, vào loại công việc, vào sự mở rộng thương mại cũng như các hoàn cảnh và thời gian khác vốn cần phải xem xét một cách chín chắn.

2. Nói chung, tất cả những gì có thể nói, đó là người ta phải coi đây là một quy tắc phổ quát và chắc chắn để tổ chức và điều hành các nghiệp đoàn để chúng cung cấp cho mỗi thành viên của mình những phương tiện giúp họ đạt được mục tiêu mà họ đề ra bằng con đường thuận tiện và ngắn nhất. Mục tiêu này hệ tại sự gia tăng lớn nhất có thể được đối với mỗi người về những thiện ích của thân thể, tinh thần và di sản gia đình.

3. Nhưng rõ ràng là trước hết cần phải nhắm đến mục tiêu chính là sự hoàn thiện luân lý và tôn giáo. Đặc biệt, chính mục đích này phải điều chỉnh nền kinh tế xã hội. Nếu không, những xã hội này sẽ nhanh chóng suy thoái và sẽ gần như rơi vào hàng ngũ những xã hội mà tôn giáo không có chỗ đứng. Vì vậy, sẽ có ích gì nếu người lao động có được sự dồi dào về vật chất trong nghiệp đoàn, nếu sự thiếu thốn lương thực thiêng liêng gây nguy hiểm cho phần rỗi linh hồn họ? « Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?[37]». Đây là đặc điểm mà Chúa Giêsu Kitô muốn chúng ta phân biệt người Kitô hữu với người ngoại đạo. « Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm…Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho[38]».

4. Vì vậy, sau khi lấy Thiên Chúa làm điểm xuất phát, hãy dành một chỗ rộng rãi cho việc giáo dục tôn giáo, để mọi người đều biết bổn phận của mình đối với Ngài. Những gì phải tin, những gì phải hy vọng, họ phải được ghi khắc cẩn thận tất cả những điều này. Hãy đặc biệt quan tâm bảo vệ họ khỏi những quan điểm ​​sai lầm và đủ loại tật xấu. Hãy dẫn dắt người lao động đến việc thờ phượng Thiên Chúa, hãy khơi dậy nơi họ tinh thần đạo đức, hãy làm cho họ đặc biệt trung thành với việc tuân giữ các ngày Chúa Nhật và các ngày lễ. Xin cho họ biết tôn trọng và yêu mến Giáo hội, mẹ chung của mọi Kitô hữu; tuân phục các giới răn của Giáo hội, năng tham dự các Bí tích vốn là những nguồn mạch thần linh mà từ đó linh hồn được thanh tẩy khỏi những vết nhơ và kín múc được sự thánh thiện.

43. Sự vận hành của các nghiệp đoàn.

1. Tôn giáo được coi là nền tảng của mọi luật pháp xã hội như thế, nên không khó để xác định mối quan hệ tương hỗ cần được thiết lập giữa các thành viên nhằm đạt được hòa bình và thịnh vượng cho xã hội.

2. Các chức năng khác nhau phải được phân bổ theo cách có lợi nhất cho lợi ích chung, và sao cho sự bất bình đẳng không gây tổn hại đến sự hòa hợp. Điều rất quan trọng là các trách vụ phải được phân bổ một cách thông minh và được xác định rõ ràng, để không ai phải chịu bất công. Quỹ chung phải được quản lý một cách liêm chính và phải xác định trước biện pháp cứu trợ dành cho mỗi thành viên, dựa trên mức độ nghèo khó của họ.

3. Quyền và nghĩa vụ của ông chủ phải được dung hòa hoàn toàn với quyền và nghĩa vụ của người lao động.

4. Đối với những trường hợp mà giai cấp này hay giai cấp kia tin rằng mình bị thiệt hại, bằng cách nào đó, rất mong muốn chính các điều lệ sẽ giao trách nhiệm cho những người khôn ngoan và liêm khiết của nghiệp đoàn giải quyết tranh chấp với tư cách là trọng tài.

5. Cũng cần phải chu cấp một cách thật đặc biệt để vào bất kỳ lúc nào người lao động không bao giờ thiếu việc làm, và cần phải có một quỹ dự phòng nhằm đối phó không chỉ với những tai nạn bất ngờ và ngẫu nhiên không thể tách rời khỏi trong lao động công nghiệp, mà còn cả bệnh tật, tuổi già và những lúc rủi ro.

6. Những luật này, miễn là được sẵn lòng chấp nhận, cũng đủ để bảo đảm sinh kế và phúc lợi nào đó cho những người yếu đuối.

7. Nhưng các nghiệp đoàn Công giáo vẫn được kêu gọi đóng góp phần tốt của mình cho sự thịnh vượng chung. Từ quá khứ, chúng ta có thể đánh giá tương lai một cách thận trọng. Thời đại này nhường chỗ cho thời đại khác, nhưng dòng chảy của sự vật cho thấy những điểm tương đồng kỳ diệu do Chúa Quan Phòng tạo ra, Đấng điều chỉnh và hướng dẫn mọi sự hướng tới mục đích mà Thiên Chúa đã đề ra khi tạo dựng nhân loại.

8. Chúng ta biết rằng, trong thời kỳ đầu của Giáo hội, người ta đã chỉ trích các Kitô hữu rằng phần lớn họ phải sống bằng việc ăn xin hoặc lao động. Tuy nhiên, dù không có của cải và quyền lực, họ vẫn biết tranh thủ được sự ưu ái của người giàu và sự bảo vệ của người có quyền. Người ta có thể thấy họ là những người siêng năng, chăm chỉ, ôn hòa, mẫu mực về công lý và trên hết là bác ái. Khi nhìn thấy một cuộc sống hoàn hảo và đạo đức trong sáng như vậy, mọi thành kiến ​​đều tan biến, những lời mỉa mai độc ác bị dập tắt, và những hư cấu mê tín thâm căn cố đế dần dần biến mất trước chân lý Kitô giáo.

44. Sự hữu ích của các nghiệp đoàn đối với toàn xã hội.

1. Vấn đề được đặt ra ngày nay là số phận của giai cấp thợ thuyền: vấn đề này sẽ được giải quyết bằng lý trí hoặc không cần lý trí. Giải pháp mà người ta sẽ thực hiện có tầm quan trọng lớn nhất đối với các quốc gia. Giờ đây, người lao động động Kitô hữu sẽ dễ dàng giải quyết vấn đề đó bằng lý trí nếu, đoàn kết thành các hiệp hội và được hướng dẫn bởi sự hướng dẫn khôn ngoan, họ đi vào con đường mà cha ông và tổ tiên họ đã tìm thấy ơn cứu độ của mình và của các dân tộc. Cho dù sức mạnh của các thành kiến ​​và đam mê ở con người như thế nào, nhưng nếu một ý chí đồi bại không hoàn toàn dập tắt được cảm thức về điều gì công bằng và chính trực, thì sớm hay muộn lòng khoan dung của công chúng sẽ phải hướng về những người lao động này, những người sẽ được coi là năng động và khiêm tốn, đặt sự công bằng lên trên lợi ích, và ưu tiên nghĩa vụ tôn giáo hơn tất cả.

2. Từ đó sẽ dẫn đến lợi ích khác này, đó là niềm hy vọng và khả năng có được một số phận tốt đẹp hơn sẽ được trao dồi dào cho những người lao động đang sống trong sự khinh thường đức tin Kitô giáo hoặc trong những thói quen bị đức tin này lên án. Họ thường hiểu rằng họ từng là món đồ chơi của những hy vọng lừa dối và những vẻ bề ngoài dối trá. Qua cách đối xử vô nhân đạo của những ông chủ tham lam, họ cảm thấy rằng họ chỉ được quý trọng trong mức độ lợi nhuận mà họ mang lại cho chủ thông qua công việc của mình. Đối với những hiệp hội đã phỉnh phờ họ, họ thấy rõ rằng thay vì lòng bác ái và tình yêu thương, họ chỉ tìm thấy sự bất hòa nội bộ, là điều đi kèm không thể tách rời với sự nghèo khổ đầy kiêu ngạo và thiếu lòng tin. Tâm hồn tan nát, thể xác kiệt quệ, có bao nhiêu người muốn rũ bỏ cái ách tủi nhục như vậy? Nhưng, hoặc là sự e sợ dư luận, hoặc là nỗi sợ cảnh bần cùng, họ đều không dám. Đối với tất cả những người lao động này, các nghiệp đoàn Công giáo có thể hữu ích một cách tuyệt vời, nếu, những người lao động này do dự, thì họ mời những người này đến tìm kiếm ở họ một phương thuốc cho mọi bệnh tật của họ, nếu, những người lao động này đã vỡ mộng, thì họ nhiệt tình chào đón những người này và bảo đảm cho những người đó sự an toàn và bảo vệ.

Lời khuyến nghị cuối cùng

45. Về việc thiết lập nền đạo đức Kitô giáo.

1. Thưa Anh Em đáng kính, Anh Em thấy vấn đề rất khó khăn này cần phải được bàn bạc và giải quyết bởi ai và bằng phương tiện nào. Mỗi người hãy lập tức làm phần việc của mình kẻo khi trì hoãn phương thuốc chữa trị, chúng ta sẽ khiến một căn bệnh vốn đã rất nghiêm trọng trở nên không thể chữa được. Nhà cầm quyền hãy sử dụng thẩm quyền bảo vệ của luật pháp và các thể chế; người giàu và ông chủ hãy nhớ đến nghĩa vụ của mình; người lao động, mà số phận của họ đang được nói đến, hãy theo đuổi lợi ích của mình thông qua các con đường hợp pháp. Như Ta đã nói từ đầu, vì chỉ duy tôn giáo mới có khả năng tiêu diệt tận gốc rễ sự ác, nên mọi người hãy nhớ rằng điều kiện đầu tiên cần đạt được, đó là thiết lập nền đạo đức Kitô giáo. Không có nó, ngay cả những phương tiện được sự khôn ngoan của con người gợi ý như là hữu hiệu nhất cũng khó có thể mang lại kết quả bổ ích.

2. Về phần Giáo hội, hoạt động của Giáo hội sẽ không bao giờ thiếu dưới bất kỳ hình thức nào và sẽ càng phong nhiêu hơn khi Giáo hội có thể phát triển một cách tự do hơn. Ta mong ước rằng điều này được hiểu đặc biệt bởi những người có sứ mạng đảm bảo lợi ích công cộng. Ước gì các thừa tác viên chức thánh hãy sử dụng tất cả sức mạnh của tâm hồn và mọi sự khéo léo nhiệt thành của mình, và thưa Anh Em đáng kính, ước gì, dưới thẩm quyền của lời nói và gương sáng của Anh Em, họ không bao giờ ngừng khắc sâu vào con người thuộc mọi tầng lớp những quy tắc Tin Mừng của đời sống Kitô hữu; ước gì họ làm việc với tất cả sức lực của mình vì phần rỗi của các dân tộc và trên hết họ hãy chuyên tâm nuôi dưỡng nơi chính mình và làm nảy sinh nơi người khác, từ người có địa vị cao nhất đến người hèn mọn nhất, Đức mến, nữ hoàng và bà chủ của mọi nhân đức.

3. Quả thật, chính từ lòng bác ái phong phú dồi dào mà chủ yếu phải mong đợi ơn cứu độ. Ta đang nói về đức mến Kitô giáo, vốn tóm tắt toàn bộ Tin Mừng và là một phương thuốc bảo đảm chống lại thói kiêu ngạo của thế kỷ và tình yêu bản thân quá độ, khi luôn sẵn sàng cống hiến hết mình để giúp đỡ người khác. Đó là nhân đức mà chức năng và đặc tính thần linh của nó được thánh Phaolô Tông đồ mô tả bằng những lời này: « Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu; không tìm tư lợi; Đức mến hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả[39]».

4. Thưa Anh Em đáng kính, như bảo chứng cho các ân huệ của Chúa và để tỏ lòng nhân từ của Ta, Ta hết lòng ban cho mỗi người trong Anh Em, cho hàng giáo sĩ và các tín hữu của Anh Em phép lành Tòa Thánh trong Chúa.

Ban hành tại Rôma, gần Vương cung thánh đường Thánh-Phêrô, ngày 15 tháng 5 năm 1891, năm thứ mười bốn Triều đại giáo hoàng của Ta.

Lm. Võ Xuân Tiến, PSS, chuyển ngữ

—————————————————————–

[1] Đnl 5, 21.

[2] Stk 1, 28.

[3] Thánh Tôma , Tổng luận thần học IIa IIae, q. 10 a.12

[4] Stk 3, 17.

[5] Gc 5, 4.

[6] 2 Tm 2,12.

[7] 2 Cr 4,17

[8] Mt 19,23-24.

[9] Lc 6, 24-25.

[10] Thánh Tôma Aquinô, Tổng luận thần học IIa IIae, q.66 a.2.

[11] Thánh Tôma Aquinô, Tổng luận thần học IIa IIae, q.65 a.2.

[12] Thánh Tôma Aquinô, Tổng luận thần học . IIa-IIae, q. 32 a.6.

[13] Lc 11, 41.

[14] Cv 20, 35.

[15] Mt 25, 40.

[16] Thánh Grêgôriô Cả, trong Evang. Hom. X.7.

[17] 2 Cr 8,9.

[18] Mc 6, 3.

[19] Mt 5, 3: « Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó ».

[20] Mt 11, 28: « Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng ». 

[21] Rm 8, 17.

[22] 1Tm 6, 10 : « Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc ».

[23] Cv 4, 34.

[24] Tertullien, Apol. II xxxix.

[25] Thánh Tôma, Tổng luận thần học IIa-IIae, q.61, a.1 ad2.

[26] Thánh Tôma, De reg. Princ. I, c. 15.

[27] Stk 1, 28.

[28] Rm 10, 12.

[29] Xh 20, 8.

[30] Stk 2, 2.

[31] Stk 3, 19.

[32]  Hc 4, 9-10.

[33] Cn 18, 19.

[34] Thánh Tôma, Contra impugnantes Dei cultunt et religionem, II.

[35] Ibid.

[36] Thánh Tôma, Tổng luận thần học Ia IIae q.93 a.3: « Nhân luật có giá trị của luật trong chừng mực nó phù hợp với lý trí ngay thẳngdưới khía cạnh này, rõ ràng là nó bắt nguồn từ luật vĩnh cửu. Hơn nữa, trong chừng mực nó trái ngược với lý trí, nó bị coi là bất công, và từ đó không còn giá trị của luật nữa, mà đúng hơn nó là bạo lực

[37] Mt 16,26 ; Mc 8,36.

[38] Mt 6,32-33.

[39] 1Cr 13,4-7.

Nguồn: xuanbichvietnam.net