WGPQN (06/10/2024) – “Cụm từ ‘thường huấn’[1] diễn tả ý tưởng rằng người được gọi vào chức linh mục không bao giờ được thôi trải nghiệm mình là người môn đệ. Người linh mục không chỉ ‘học biết Chúa Kitô’ nhưng, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, còn ở trong tiến trình nên đồng hình đồng dạng tiệm tiến và bền bĩ với Chúa Kitô, nơi con người và hoạt động của mình. Điều này là một thách đố thường xuyên cho sự phát triển nội tâm cua con người”.[2]
“Cha kêu mời con khơi thắm lại ân huệ mà Thiên Chúa đã đổ xuống nơi con” (2Tm 1,6). Đó là lời của Thánh Phaolô viết cho môn đệ thân tín của mình là Thánh Timôthê và được Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II dùng làm chủ đề cho chương VI của Tông huấn Pastores Dabo Vobis về việc đào tạo linh mục trong hoàn cảnh hiện nay. Chương này tuy có phần ngắn hơn các chương khác, nhưng có thể được coi như chương cao điểm của toàn bộ Tông huấn. Nội dung của chương này tập trung trình bày về việc đào tạo trường kỳ dành cho các linh mục hay còn gọi là thường huấn linh mục.
Sau khi xác định rằng “việc đào tạo trường kỳ tìm được nền tảng đặc thù và động cơ nguồn cội của mình trong sự năng động của bí tích Truyền chức thánh”,[3] Tông huấn trình bày những lý do thần học mà các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã nêu lên để “chứng tỏ sự cần thiết của việc đào tạo trường kỳ và biểu lộ bản chất sâu xa của việc đào tạo ấy, khi các ngài đánh giá việc đào tạo trường kỳ như là ‘sự trung thành’ đối với thừa tác vụ linh mục và như là ‘một tiến trình hoán cải liên tục’”.[4]
Tiếp đến, Tông huấn đề cập đến các chiều kích đa dạng của việc thường huấn, qua đó cho thấy “việc đào tạo trường kỳ dành cho các linh mục, triều hoặc dòng, là một sự nối dài hết sức tự nhiên và hoàn toàn cần thiết đối với tiến trình cơ cấu hóa nhân cách linh mục đã khởi sự và khai triển ở chủng viện, hoặc tại cơ sở tôn giáo, trong thời gian đào tạo để được phong chức”.[5]
Sau đó, Tông huấn trình bày ý nghĩa sâu xa của việc thường huấn và đây chính là đề tài chúng ta sẽ khai triển trong bài này. Ý nghĩa sâu xa của việc thường huấn trước hết được gắn liền với các chiều kích trong việc đào tạo linh mục và sau đó được đánh giá trong tương quan với Giáo hội xét như là mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ.
1. TRONG TƯƠNG QUAN VỚI CÁC CHIỀU KÍCH ĐÀO TẠO LINH MỤC
Theo Tông huấn Pastores Dabo Vobis, để trở thành một linh mục, các ứng sinh phải trải qua một chương trình đào tạo gồm 4 chiều kích: nhân bản, thiêng liêng, trí thúc và mục vụ. Các chiều kích này vừa mang tính dị biệt vừa bổ túc cho nhau: “Chiều kích nhân bản là nền tảng cần thiết và năng động của toàn bộ đời sống linh mục; chiều kích thiêng liêng quyết định phẩm chất của thừa tác vụ linh mục; chiều kích trí thức cung cấp những công cụ thuần lý cần thiết để hiểu các giá trị riêng làm nên người mục tử, ngõ hầu họ có thể đưa các giá trị này vào trong cuộc sống cũng như truyền đạt nội dung đức tin cách thích đáng; chiều kích mục vụ rèn luyện năng lực đảm nhận một cách có trách nhiệm và phong phú phận vụ được Giáo hội giao phó”.[6]
Sau khi thụ phong, chương trình đào tạo này còn được tiếp tục qua chương trình thường huấn cũng với 4 chiều kích như trên, nhưng với cách thức khác. Tông huấn viết: “Tính dị biệt và tính bổ túc lẫn nhau của các chiều kích trong việc đào tạo trường kỳ giúp chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa sâu xa của việc đào tạo ấy: giúp đỡ linh mục để cho con người và hành động của linh mục luôn rập theo tinh thần và đường lối của Đức Giêsu Mục tử nhân lành”.[7]
1.1. Trong chiều kích nhân bản
Trước hết, chúng ta hãy xem chiều kích nhân bản của việc thường huấn góp phần làm cho con người và hành động của linh mục luôn rập theo tinh thần và đường lối của Đức Giêsu Mục tử nhân lành như thế nào?
1.1.1. Linh mục phải nên giống Đức Kitô là con người hoàn hảo
Nhân bản là chiều kích đầu tiên và nền tảng trong việc đào tạo linh mục. Đó là khẳng định của các Nghị phụ Thượng Hội đồng: “Không có đào tạo nhân bản thỏa đáng, thì việc đào tạo linh mục trong toàn bộ sẽ bị thiếu hụt mất nền tảng cần thiết”.[8] Nhờ bí tích Truyền chức thánh, linh mục trở thành Alter Christus, một Đức Kitô thứ hai. Khi xuống thế làm người, Đức Kitô vừa là một Vị Thiên Chúa trọn vẹn, đồng thời cũng là một con người trọn vẹn, con người hoàn hảo với tất cả những đức tính nhân bản của một con người trong mức độ hoàn hảo nhất. Đó là mẫu gương tuyệt vời về phương diện nhân bản mà mọi linh mục đều phải noi theo. Dĩ nhiên không ai trong các linh mục có được tất cả mọi đức tính nhân bản như Đức Kitô, nhưng hình ảnh Đức Kitô hoàn hảo về phương diện nhân bản vẫn là một lý tưởng mà các linh mục luôn hướng đến. Cũng như khi Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện, thì không có bất kỳ người nào đạt đến sự hoàn thiện của Cha trên trời, nhưng mọi người đều được mời gọi ngày càng trở nên hoàn thiện hơn theo mẫu gương của Cha trên trời.
“Với cái nhìn gắn chặt vào Chúa Kitô, linh mục phải thực hành cách đặc biệt lòng tốt, sự kiên nhẫn, sự dễ thương, sức mạnh linh hồn, tình yêu đối với công lý, ý thức về sự quân bình, lòng trung thành đối với lời đã nói, sự nhất quán đối với những dấn thân mà ngài đảm nhận cách tự do”.[9]
1.1.2. Linh mục phải nên giống Đức Kitô là Đầu và Mục tử
Ngoài việc phải trở nên giống Đức Kitô là một con người hoàn hảo, các linh mục còn phải nên giống Đức Kitô là Đầu và là Mục tử. Điều này được thực hiện trước hết qua việc đào tạo chiều kích nhân bản. Đó là “một đòi buộc mà nguyên do sâu xa nhất và loại biệt nhất nằm ngay trong chính bản chất của linh mục và của thừa tác vụ linh mục. Được mời gọi trở nên ‘hình ảnh sống động’ của Đức Giêsu Kitô là Đầu và Mục Tử, linh mục cần phải phản ánh nơi chính mình, trong mức độ có thể, sự thành toàn nhân bản như được rạng chiếu nơi Con Thiên Chúa làm người và như được nhìn xuyên thấu qua các thái độ đầy hiệu năng của Người đối với tha nhân, đúng như lời diễn tả của các tác giả Tin mừng”.[10]
Trong Giáo hội là Thân mình mầu nhiệm của Đức Kitô, các linh mục cũng chỉ là những chi thể của Thân mình ấy như mọi tín hữu khác. Tuy nhiên, nhờ ơn thánh của Bí tích Truyền chức thánh, các linh mục được tham dự vào vai trò của Đầu là Đức Kitô, để qua các linh mục, Đức Kitô thể hiện vai trò làm Đầu của mình đối với toàn thể Giáo hội. Là hình ảnh sống động của Đức Kitô là Đầu, các linh mục đóng vai trò làm nhịp cầu giữa các tín hữu với Đức Kitô, để giúp họ liên kết với Đức Kitô là Đầu và sống theo sự lãnh đạo của Người.
“Thật vậy, để cho thừa tác vụ của linh mục được dễ tin hơn và dễ đón nhận hơn xét theo phương diện nhân bản, linh mục cần phải trau dồi nhân cách của mình sao cho mình trở nên một ‘nhịp cầu’ chớ không phải một chướng ngại vật cho tha nhân trong việc gặp gỡ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu chuộc loài người”.[11] Để đóng vai trò nhịp cầu nối kết con người với Chúa Giêsu và để qua linh mục con người đến được với Đức Kitô, thì trước hết linh mục phải là người đáng tin. Để trở thành người đáng tin, linh mục phải là người có nhân cách, và có những nét giống như Đức Kitô, để có thể giới thiệu Đức Kitô cho con người.
Đức Giêsu Kitô đã nói: “Tôi chính là Mục tử nhân lành, tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10,14). Các linh mục cũng được tham dự vào vai trò mục tử của Đức Kitô, nên các linh mục cũng không những phải biết rõ Đức Kitô để có thể giới thiệu cho mọi người, mà còn phải biết các con chiên để có thể giúp họ nhận biết Đức Kitô. Để có thể biết các con chiên, linh mục “cần phải lớn lên trong việc tiếp xúc thường ngày với người khác và trong việc chia sẻ cuộc sống với họ mỗi ngày; linh mục cần phải trau dồi tính nhạy bén nhân bản để nhờ đó có thể hiểu được những nhu cầu và đón nhận những lời kêu cứu, có thể trực giác những yêu cầu không được phát biểu thành lời, có thể chia sẻ những mối hy vọng và những nỗi mong chờ, có đủ khả năng gặp gỡ từng người và đối thoại với mọi người. Trên tất cả, trong khi am hiểu và chia sẻ, nghĩa là trong khi biến thành của mình kinh nghiệm khổ đau của con người dưới mọi hình thức, từ cơ bần đến bệnh tật, từ lạc loài đến ngu dốt, từ cô đơn đến đủ loại nghèo đói vật chất hoặc tinh thần, linh mục làm cho kinh nghiệm nhân bản của mình được nên phong phú, biến nó thành chính hiệu hơn và xuyên thấu hơn trong một tình yêu ngày càng gia tăng và nồng nhiệt với con người”.[12]
Trước khi lên đường loan báo Tin mừng, Đức Giêsu đã phải trải qua thời gian 30 năm để chia sẻ cuộc sống của người dân, để biết hoàn cảnh sống và tâm tư nguyện vọng của họ, để hiểu biết những khó khăn và trăn trở của họ, nhờ đó những bài giảng của Người trở nên thực tế, dễ hiểu và nhờ cung cách sống ấy mà Người được mọi người thương mến. Cũng vậy, “linh mục phải làm sao để tính bén nhạy nhân bản của mình được nên phong phú nhờ vào một kinh nghiệm ngày càng lớn rộng hơn và để cho Dân Thiên Chúa có thể nói về mình một cách tương tự như tác giả thư gởi tín hữu Do-thái đã nói về Đức Giêsu : “Không phải chúng ta có một vị thượng tế bất lực, không cảm thông được những nỗi yếu hèn của chúng ta, trái lại, Người đã nếm chịu mọi thử thách, giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi” (Dt 4,15).[13]
1.2. Trong chiều kích thiêng liêng
Tông huấn viết: “Việc đào tạo nhân bản ấy, nếu được phát triển trong bối cảnh của một nền nhân học thừa nhận sự thật trọn vẹn về con người, sẽ khai mở và bổ khuyết cho việc đào tạo thiêng liêng”.[14] Giờ đây, chúng ta hãy xem chiều kích thiêng liêng của việc thường huấn góp phần làm cho con người và hành động của linh mục luôn rập theo tinh thần và đường lối của Đức Giêsu Mục tử nhân lành như thế nào?
1.2.1. Chiều kích thiêng liêng của con người
Có lẽ đoạn văn sau đây của Tông huấn đã hé mở cho chúng ta thấy sự chuyển tiếp từ việc đào tạo nhân bản đến việc đào tạo thiêng liêng đối với một Kitô hữu, để từ đó dẫn đến việc đào tạo thiêng liêng đối với một linh mục: “Được Thiên Chúa tạo dựng và được máu Đức Kitô cứu chuộc, mọi người đều được mời gọi tái sinh ‘bởi nước và bởi Thần Khí’ (Ga 3,5) và trở nên ‘con trong Con’. Chính trong kế hoạch hữu hiệu ấy của Thiên Chúa mà chúng ta tìm gặp chiều kích tôn giáo, là yếu tố cấu thành con người, chiều kích ấy vốn được khám phá và nhìn nhận bởi lý trí đơn thuần: con người hướng mở về cái siêu việt, về cái tuyệt đối; tâm hồn con người khắc khoải mãi cho tới khi an nghỉ trong Chúa (Thánh Augustinô)”.[15]
Người ta vẫn thường định nghĩa con người là sinh vật có lý trí, có xã hội tính, nhưng thực ra con người còn là sinh vật có tôn giáo tính, vì nó phát xuất từ Thiên Chúa và sẽ trở về với Thiên Chúa. Con người không chỉ có bản tính tự nhiên mà còn có chiều kích siêu nhiên. Con người là sinh vật duy nhất có dáng đứng thẳng, chân đạp đất nhưng đầu thì đội trời, là gạch nối giữa trời và đất, vừa có thân xác gồm những yếu tố vật chất, nhưng đồng thời cũng có một linh hồn bất tử được tạo thành để nhận biết Thiên Chúa và được mời gọi chia sẻ hạnh phúc vĩnh cửu với Người. Nói cách khác, con người vừa có chiều kích nhân bản, vừa có chiều kích siêu nhiên hay thiêng liêng. Bởi vậy, nếu đã có đào tạo con người về mặt nhân bản thì cũng phải có đào tạo con người về mặt thiêng liêng. Việc đào tạo thiêng liêng là cần thiết đối với các tín hữu, và nó càng quan trọng hơn nữa đối với các linh mục.
“Đối với mọi tín hữu, đào tạo thiêng liêng phải là việc làm trung tâm và phải tạo sự thống nhất giữa con người Kitô hữu với đời sống Kitô hữu, nghĩa là sự thống nhất của một tạo vật mới trong Đức Kitô đang tấn tới trong Chúa Thánh Thần. Cùng một cách thức ấy, đối với mọi linh mục, việc đào tạo thiêng liêng phải là ‘tâm điểm’, phải tạo sự thống nhất cũng như sức sống cho ‘hữu thể’ và ‘hành động’ của linh mục. Trong chiều hướng ấy, các Nghị phụ Thượng Hội đồng quả quyết rằng ‘thiếu đào tạo thiêng liêng, việc đào tạo mục vụ sẽ không có nền tảng’[16] và rằng đào tạo thiêng liêng chính là yếu tố quan trọng nhất trong nền giáo dục linh mục”.[17]
1.2.2. Đời sống thiêng liêng của linh mục
Ý nghĩa sâu xa của việc đào tạo thiêng liêng đối với linh mục là nhằm xây dựng một đời sống thiêng liêng, một mối tương quan hiệp thông với Thiên Chúa. Dựa theo mạc khải và kinh nghiệm Kitô giáo, việc đào tạo thiêng liêng này mang tính chất độc đáo và mới mẻ của Tin mừng. Thực ra, “việc đào tạo ấy là công việc của Chúa Thánh Thần, đòi hỏi toàn diện con người phải dấn thân; việc đào tạo ấy dẫn vào trong sự hiệp thông sâu xa với Đức Giêsu Kitô Mục tử nhân lành”.[18] Sự hiệp thông sâu xa này làm phát sinh một tình yêu quảng đại và dâng hiến là điều kiện của đức ái mục tử.[19]
Nếu nhờ việc đào tạo nhân bản, linh mục trở thành những người luôn vui vẻ đón tiếp mọi người, bằng lòng lắng nghe họ và bày tỏ cho họ một mối thiện cảm nào đó, thì nhờ việc đào tạo thiêng liêng, linh mục trở nên như Chúa Giêsu Mục tử, có khả năng giúp họ ngắm nhìn Thiên Chúa và tiến về phía Thiên Chúa. Nhờ việc đào tạo thiêng liêng, linh mục có thể đáp ứng điều mà người ta đòi hỏi nơi linh mục: “Linh mục là người của Thiên Chúa, là người thuộc về Thiên Chúa và làm cho người ta suy nghĩ về Thiên Chúa. Khi nói về Đức Kitô, Thư gởi tín hữu Do-tháitrình bày Đức Kitô như một ‘vị thượng tế nhân ái và trung thành trong những sự việc liên can tới Thiên Chúa’ (Dt 2,17)”.[20]
Nhờ việc đào tạo thiêng liêng xây dựng đời sống nội tâm, các linh mục ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô là Mục tử nhân lành. Điểm đặc biệt nổi bật của Đức Kitô với tư cách Vị Mục tử nhân lành chính là đức ái mục vụ, tức là tình yêu thương được Đức Kitô thể hiện xuyên suốt 3 năm rao giảng Tin mừng, mà cao điểm là cái chết trên thập giá để đem lại cho đoàn chiên sự sống dồi dào, tức là sự sống thần linh. Tông huấn đã khẳng định: “Linh hồn và hình dạng của việc đào tạo trường kỳ dành cho linh mục chính là đức ái mục vụ”.[21] Tuy nhiên có thể nói, đức ái mục vụ là đối tượng chuyên biệt của việc đào tạo thiêng liêng trong chương trình đào tạo trường kỳ. Thật vậy, qua việc đào tạo thiêng liêng, chính Chúa Thánh Thần luôn hướng dẫn và sát cánh với linh mục trong sự hiểu biết ngày càng sâu rộng hơn về mầu nhiệm Đức Kitô mà sự phong phú không thể dò thấu được, đó là sự phong phú của tình yêu mà Đức Kitô thể hiện với đoàn chiên của Người như lời Thánh Phaolô viết trong thư gửi tín hữu Êphêxô: “Tôi nguyện xin Chúa Cha, thể theo sự phong phú của Người là Đấng vinh hiển, ban cho anh em được củng cố mạnh mẽ nhờ Thần Khí của Người, để con người nội tâm nơi anh em được vững vàng. Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Kitô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt quá mọi hiểu biết” (Ep 3,16-19).[22]
“Chiều kích thiêng liêng trong việc đào tạo linh mục là một đòi buộc của đời sống mới theo tinh thần Tin Mừng mà linh mục được mời gọi một cách đặc loại do Chúa Thánh Thần được ban cho linh mục trong bí tích Truyền chức thánh. Bằng cách thánh hiến linh mục và làm cho linh mục nên đồng hình dạng với Đức Giêsu Kitô Đầu và Mục Tử, Chúa Thánh Thần tạo một mối dây liên kết ngay trong chính hữu thể của linh mục ; mối dây liên kết ấy cần phải được cảm nhận và sống một cách cá vị, nghĩa là với ý thức và tự do, bằng một đời sống hiệp thông và yêu thương ngày càng phong phú hơn và bằng một sự thông phần vào những tâm tình và thái độ của Đức Giêsu Kitô ngày càng lớn mạnh và triệt để hơn. Trong mối dây liên kết giữa Chúa Giêsu với linh mục, về phương diện hữu thể và tâm lý, bí tích và đạo đức, có chất chứa nền tảng và đồng thời sức mạnh cần thiết cho ‘đời sống trong Thần Khí’ và cho ‘tính triệt để Tin Mừng’ mà linh mục được mời gọi hướng tới, mà việc đào tạo trường kỳ về phương diện thiêng liêng cổ võ. Việc đào tạo ấy cũng cần thiết cho thừa tác vụ linh mục, nhằm làm cho thừa tác vụ ấy được chính hiệu và được sai nở về mặt thiêng liêng”.[23]
1.3. Trong chiều kích trí thức
“Mặc dầu bao gồm những đòi hỏi loại biệt, đào tạo trí thức mật thiết gắn liền với đào tạo nhân bản và thiêng liêng, đến độ tạo thành một chiều kích cần thiết cho nền đào tạo ấy: thật ra đào tạo trí thức là một đòi hỏi của lý trí nhờ đó con người ‘dự phần vào ánh sáng thông hiểu của Thiên Chúa’ và tìm cách đạt tới sự khôn ngoan để rồi sự khôn ngoan, đến lượt nó, lại giúp hiểu biết Thiên Chúa và gắn bó với Ngài”.[24]
Chiều kích trí thức của việc thường huấn cũng mang một ý nghĩa sâu xa qua việc góp phần làm cho linh mục trở nên đồng dạng với Đức Giêsu Mục tử nhân lành, điều đó được thực hiện như thế nào?
1.3.1. Sự hiểu biết những vấn đề của con người
Qua mầu nhiệm Nhập thể, Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể làm người là chính Đức Kitô. Đức Phaolô VI đã nói: “Đức Kitô đã hoá nên đương thời với một số người và đã dùng ngôn ngữ của họ để tự diễn đạt chính mình. Trung thành với Người có nghĩa là làm sao để Người vẫn tiếp tục là người đương thời với chúng ta”.[25]
Ngày nay chính Người vẫn luôn là vị Mục tử của đoàn chiên. Chính Người đang chăn dắt đoàn chiên của Người qua các linh mục là những người được Người cho tham dự vào chức vụ mục tử của Người. Vì vậy, để có thể thi hành tác vụ mục tử theo chân Đức Kitô là vị Mục tử nhân lành, các linh mục cũng phải sống mầu nhiệm Nhập Thể của Đức Kitô, không những phải sống hòa đồng với mọi người mà còn phải có kiến thức về mọi vấn đề của con người để có thể hướng dẫn họ.
“Để có được sự hiểu biết sâu rộng hơn về con người và về những hiện tượng xã hội, nhằm mục đích thi hành thừa tác vụ mục tử sao cho được ‘nhập thể’ tối đa, các khoa học về con người, theo như người ta vẫn thường gọi, chắc chắn không thể không hữu ích; đó là xã hội học, tâm lý học, sư phạm, các khoa học kinh tế và chính trị, các khoa học truyền thông xã hội. Trong khuôn khổ nhất định của những khoa học thực nghiệm và mô tả, các khoa học về con người giúp cho linh mục tương lai nối dài hoạt động của Đức Kitô như Người đã hoá nên đương thời với những con người thuộc thời đại Người”.[26]
Xã hội con người lúc nào cũng có những thay đổi, nhất là trong thời đại hiện nay, khi khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng làm thay đổi diện mạo của cuộc sống con người, tạo nên nhiều vấn đề mới. Vì vậy, con người ngày nay chắc chắn cần nhiều kiến thức hơn ngày xưa mới có thể theo kịp đà tiến bộ của xã hội. Do đó, để có thể đóng vai trò mục tử hướng dẫn các tín hữu, các linh mục cần phải được trang bị những kiến thức cần thiết, nhất là về văn hóa, bằng cách không ngừng học hỏi, nghiên cứu. Vì vậy việc đào tạo linh mục về phương diện trí thức không dừng lại ở chương trình đào tạo trong chủng viện, mà còn phải được tiếp tục suốt cuộc đời linh mục, hay ít ra là bao lâu linh mục còn đảm nhận nhiệm vụ mục tử trong Giáo hội.
Về vấn đề này, Tông huấn dạy: “Chiều kích trí thức của việc đào tạo cũng đòi phải được đeo đuổi và trau dồi suốt đời sống linh mục, cách riêng bằng việc học hỏi và bằng nỗ lực cập nhật hoá (“aggiornamento”) nghiêm chỉnh và cần cù về văn hoá. Thông phần vào sứ vụ ngôn sứ của Đức Giêsu và hội nhập vào trong mầu nhiệm Giáo hội, thầy dạy chân lý, linh mục được mời gọi tỏ lộ cho nhân loại dung mạo của Thiên Chúa và dồng thời dung mạo đích thực của con người trong Đức Giêsu Kitô.[27] Tuy nhiên, để thực hiện điều đó, chính linh mục cũng phải kiếm tìm dung mạo ấy và chiêm ngắm dung mạo ấy với tâm tình ngưỡng mộ và yêu mến (x. Tv 26,8; 41,2). Chỉ bằng cách đó linh mục mới có thể giúp người khác cũng nhận ra”.[28]
1.3.2. Sự hiểu biết về các chân lý đức tin
Linh mục vừa là con người của đại chúng, vừa là người của Thiên Chúa, do đó ngoài việc phải bổ sung và hoàn thiện kiến thức phần đời, linh mục còn phải luôn trau dồi kiến thức thần học mà các linh mục đã tiếp thu được từ đại chủng viện. Đây cũng là nội dung luôn luôn phải có trong các khóa thường huấn linh mục. Theo đuổi việc học thần học sau khi hoàn tất chương trình thần học tại đại chủng viện là điều tất yếu không thể thiếu đối với linh mục, nhờ đó linh mục mới có thể chu toàn cách đúng đắn và trung thành thừa tác vụ Lời Chúa. Thật vậy, nhờ kiến thức thần học ngày càng được nâng cao, các linh mục mới có thể loan báo Lời Chúa một cách không lầm lẫn và không mơ hồ. Đó là điều dân Chúa rất cần, bởi vì phần lớn người tín hữu không có đủ khả năng để hiểu được Lời Chúa. Chẳng những họ không hiểu được nội dung và ý nghĩa Lời Chúa, mà cả việc áp dụng Lời Chúa vào những hoàn cảnh đặc thù của họ quả thật là khó. Linh mục cần phải biết phân biệt Lời Chúa với những quan điểm thuần túy nhân loại, cho dầu chúng có nổi tiếng và được mọi người biết đến. Cụ thể, khi giảng lễ, linh mục phải khởi đi từ Lời Chúa rồi áp dụng vào cuộc sống cụ thể, chứ không khởi đi từ một tư tưởng của một danh nhân rồi giải thích Lời Chúa theo chiều hướng ấy. Nhờ cập nhật kiến thức thần học, các linh mục mới có thể phục vụ Dân Chúa cách tốt đẹp nhất và đồng thời giúp người ngoại đón nhân Lời Chúa, trả lời mọi câu hỏi của họ về đạo Chúa, cũng như giúp các tín hữu khẳng định niềm hy vọng của mình như Thánh Phêrô đã dạy (x.1Pr 3,15).[29]
Ngoài ra, “nhờ chuyên chăm học hỏi thần học một cách có ý thức và kiên trì, linh mục đạt tới mức độ thấm nhuần sự phong phú chính hiệu của Giáo hội dưới một dạng thức vững chắc và cá vị. Từ đó linh mục có thể chu toàn sứ vụ trong đó có bổn phận phải giải đáp những khúc mắc về giáo lý công giáo chính hiệu, phải thắng vượt khuynh hướng – của chính mình và của người khác – phản đối hoặc có thái độ tiêu cực đối với Huấn quyền và truyền thống”.[30] Đó cũng là cách các linh mục thi hành tác vụ với tư cách là mục tử trong thời đại mới theo gương Đức Kitô là Mục tử nhân lành.
1.4. Trong chiều kích mục vụ
Nếu ý nghĩa sâu xa của việc đào tạo trường kỳ là làm cho linh mục trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu Mục tử nhân lành, thì điều ấy được nhìn thấy một cách rõ ràng nhất trong chiều kích mục vụ.
1.4.1. Linh mục trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô Mục tử
Bốn chiều kích: nhân bản, thiêng liêng, trí thức và mục vụ của việc đào tạo trường kỳ tạo nên một hành trình từng bước tiến tới sự trưởng thành trong đời sống của linh mục với tư cách là những mục tử theo gương Đức Kitô, Mục tử nhân lành. Tất cả bốn chiều kích đều quan trọng, nhưng chiều kích mục vụ khiến linh mục nhận ra tầm quan trong của việc trao dồi các chiều kích kia, bởi lẽ tất cả 3 chiều kích kia đều qui về chiều kích mục vụ, vì điểm đến của việc đào tạo trường kỳ là biến các linh mục trở thành những mục tử như lòng Chúa mong ước, những người biết dùng các hoạt động mục vụ của mình để làm cho Đức Kitô Mục tử hiện diện và hoạt động giữa trần gian, như lời các Nghị phụ của Thượng Hội đồng đã viết: “Điều cần thiết là linh mục phải làm chứng cho đức ái của chính Chúa Kitô, Đấng “đi tới đâu cũng đều thi ân giáng phúc” (Cv 10,38).[31]
Việc thường huấn không nhằm đến lý thuyết, nhưng nhằm đào tạo con người linh mục đạt đến sự trưởng thành với tầm vóc của người mục tử phản ảnh chính con người và hành động của Đức Kitô. Để đạt đến sự trưởng thành này, các linh mục không những phải trau dồi tất cả mọi chiều kích của nền đào tạo, nhưng còn là và nhất là đòi linh mục phải biết làm cho các chiều kích ấy thấm nhập trọn vẹn một cách hòa điệu, đến độ dần dà đạt tới sự thống nhất nội tâm được thể hiện bằng đức ái mục vụ. Chính đức ái mục vụ sẽ giúp linh mục phối hợp và thống nhất tất cả các chiều kích của việc thường huấn, nhờ đó linh mục trở thành hình ảnh xuyên thấu và sống động của Đức Kitô, hay nói cách khác, trở thành như bí tích của Đức Giêsu Mục tử nhân lành.[32]
Để được như vậy, việc đào tạo mục vụ phải quy về một nguồn mạch bên trong: đó là sự hiệp thông ngày càng sâu đậm hơn vào đức ái mục vụ của Chúa Giêsu. Điều này được thực hiện nhờ việc Đức Kitô tuôn đổ Thánh Thần của Người qua bí tích Truyền chức thánh, vì chính Thánh Thần là nguồn cội và sức mạnh cho thừa tác vụ linh mục. Việc thường huấn không chỉ nhằm đến việc bảo đảm cho các linh mục có được một uy thế mục vụ mang tính khoa học và một sự khôn khéo về mặt thực hành trong khi thi hành tác vụ, nhưng còn là và nhất là bảo đảm cho sự tăng trưởng của một phương cách hiện hữu trong sự hiệp thông với chính những tâm tình và những thái độ cư xử của Đức Kitô Mục tử nhân lành. Thánh Phaolô đã khuyên các tín hữu Philipphê: “Anh em hãy đối xử với nhau bằng những tâm tình vốn có ở trong Đức Kitô Giêsu” (Pl 2,5). Nếu đây là điều các Kitô hữu phải có, thì các linh mục càng phải có hơn nữa.[33]
“Phương diện mục vụ trong việc đào tạo trường kỳ đã được Thánh Tông đồ Phêrô diễn tả một cách hoàn chỉnh: ‘Mỗi người trong anh em hãy tùy theo ơn mình đã lãnh nhận mà phục vụ lẫn nhau, như những người quản lý thành thạo về ân sủng muôn hình vạn trạng của Thiên Chúa’ (1Pr 4,10). Để mỗi ngày sống theo ơn đã lãnh nhận, linh mục phải ngày càng rộng mở, sao cho đức ái mục vụ của Đức Giêsu Kitô, được Chúa Thánh Thần ban cho khi lãnh nhận bí tích, biến thành của mình. Cũng như toàn thể hoạt động của Chúa đều là hoa trái và là dấu chỉ của đức ái mục vụ của Người, sinh hoạt thừa tác vụ của linh mục cũng phải như vậy. Đàng khác, đức ái mục vụ là một hồng ân, nhưng đồng thời cũng là một bổn phận, một ân sủng và một trách nhiệm đòi chúng ta phải trung thành; vì thế cần phải đón nhận đức ái mục vụ và sống sự năng động của đức ái mục vụ cho đến tận những đòi hỏi triệt để nhất. Cũng chính đức ái mục vụ ấy, như đã được đề cập, khuyến khích và thúc đẩy linh mục ngày càng am hiểu hơn hoàn cảnh thiết thực của những người nam và nữ mà mình được sai đến, phân định những tiếng kêu mời của Thần Khí trong những hoàn cảnh lịch sử mình trải qua, cuối cùng tìm kiếm những phương pháp thích ứng nhất và những cách thế hữu ích nhất để thi hành thừa tác vụ của mình ngày hôm nay. Như thế, đức ái mục vụ làm sinh động và nâng đỡ những nỗ lực nhân linh của linh mục để cho hoạt động mục vụ của linh mục được thích nghi, khả tín và hiệu nghiệm. Để được như vậy cần có một nền đào tạo mục vụ trường kỳ”.[34]
1.4.2. Tránh chủ trương duy hoạt động
Có nhiều linh mục hoạt động mục vụ rất năng động, tuy nhiên vô tình bị rơi vào cái bẫy của chủ trương duy hoạt động. Có thể nói các linh mục ấy là nạn nhân của chủ nghĩa duy hoạt động trong cuộc sống lao xao, tản mác, có thể sôi nổi nhưng thực ra là cằn cỗi. Họ đã quên mất rằng nếu ân sủng của Chúa không thấm nhuần vào hoạt động của họ thì cuộc sống của họ sẽ chẳng sinh hoa trái đích thực nào. Và nếu họ không trau dồi đời sống thiêng liêng, thì hoạt động của họ sẽ nhanh chóng thoái hóa thành một loạt động tác máy móc, kèm theo một động lực thầm kín và tinh vi là tìm kiếm chính bản thân mình dưới những chiêu bài thánh thiện. Đó là điều được gọi là cám dỗ làm điều tốt của mình, chứ không phải của Chúa: trong Tin mừng Chúa Giêsu cũng đã nói về những người bị loại khỏi Nước Trời cho dù họ đã từng nhân danh Chúa làm phép lạ, nói tiên tri, trừ quỉ (x. Mt 7,22-23).
Theo Tông huấn Pastores Dabo Vobis, “việc đào tạo trường kỳ giúp cho linh mục thắng vượt mối cám dỗ đưa thừa tác vụ của mình đến chỗ lấy chủ trương duy hoạt động làm cùng đích, để cho thừa tác vụ bị xâm chiếm một cách vô ngã bởi đủ loại sự việc, cho dẫu có thiêng liêng và linh thánh đến đâu, hoặc còn giản lược thừa tác vụ thành một thứ việc làm của công chức phục vụ cho tổ chức giáo sĩ. Chỉ có việc đào tạo trường kỳ mới giúp cho linh mục bảo toàn được mầu nhiệm mà linh mục cưu mang nơi chính mình bằng một tình yêu không chểnh mảng hầu mưu ích cho Giáo hội và cho nhân loại”.[35]
Tiếp nối giáo huấn của Đức Gioan Phaolô II, trong Tông huấn Evangelii Gaudium, Đức Phanxicô cũng đã dạy: “Vấn đề không luôn luôn ở chỗ quá nhiều hoạt động, nhưng là hoạt động được thực hiện không tốt, không có động lực thích hợp, không có một linh đạo thấm nhuần hoạt động ấy và làm cho nó thú vị. Kết quả là hoạt động trở nên mệt nhọc quá mức, nhiều khi dẫn tới bệnh tật. Thay vì cảm thấy mệt nhưng vui và thoả mãn, người ta cảm thấy căng thẳng, nặng nề, không thoả mãn và rốt cuộc là không chịu đựng nổi”.[36]
“Bởi vì hoạt động mục vụ tự bản chất nhắm đến việc tạo sức sống cho một Giáo hội vốn thiết yếu là ‘mầu nhiệm’, ‘hiệp thông’ và ‘sứ vụ’, nền đào tạo mục vụ sẽ phải chú trọng đến các chiều kích ấy trong việc thi hành thừa tác vụ”.[37] Như vậy, ý nghĩa của chiều kích mục vụ trong việc thường huấn linh mục mở ra một cái nhìn khác về ý nghĩa của việc thường huấn liên quan đến các chiều kích của Giáo hội.
2. LIÊN QUAN ĐẾN CÁC CHIỀU KÍCH CỦA GIÁO HỘI
Sau khi hiểu rõ hơn về ý nghĩa sâu xa của việc thường huấn dành cho các linh mục dựa vào các chiều kích của việc đào tạo ấy. Giờ đây “trong một bối cảnh về học thuyết Giáo hội như đã được gợi lên nhiều lần, có thể đánh giá ý nghĩa sâu xa của việc đào tạo trường kỳ dành cho linh mục bằng cách dựa vào sự hiện diện và hoạt động của linh mục trong Giáo hội xét như là mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ”.[38]
2.1. Ba chiều kích của Giáo hội
Đứng trước một thế giới đang trên đà tục hóa muốn loại bỏ hay phủ nhận tất cả những gì là thánh thiêng, mầu nhiệm, Công đồng Vaticanô II muốn trình bày Giáo hội như mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ; cả ba chiều kích này gắn liền với nhau, tạo nên một bản chất đặc thù của Giáo hội.
Thần học về Giáo hội là mầu nhiệm, hiệp thông, sứ vụ, phát xuất từ Công đồng Vaticanô II. Phần giáo lý về Giáo hội mầu nhiệm và hiệp thông được Công đồng khai triển trong Hiến chế Lumen Gentium, còn phần về Giáo hội sứ vụ thì được trình bày trong Hiến chế Gaudium et Spes. Sau đó Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II là người đã có công khai triển hình ảnh Giáo hội với 3 chiều kích này.[39]
Ba chiều kích mầu nhiệm, hiệp thông, sứ vụ, trước hết được nhìn thấy nơi chính Đức Kitô. Người là con người của mầu nhiệm, vì qua cuộc Nhập Thể, Người vừa là con người thật, vừa là Thiên Chúa thật; Người là hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa vô hình; nơi Người, mầu nhiệm Thiên Chúa và mầu nhiệm con người được bày tỏ trọn vẹn và nối kết với nhau, đến độ không thể biết Thiên Chúa là ai nếu không biết Đức Kitô và cũng không thể biết con người là ai nếu không qui chiếu về Đức Kitô.
Đức Kitô là con người của sự hiệp thông, vì Người luôn kết hiệp với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, luôn thi hành thánh ý Chúa Cha và luôn bước đi theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần; đồng thời Người cũng luôn kết hiệp với Giáo hội như Hôn phu với hiền thê và như Đầu với thân mình. Chính Người đã phá đổ bức tường ngăn cách giữa các dân tộc và qui tụ muôn dân thành một cộng đoàn hiệp thông với Thiên Chúa và với nhau.
Đức Kitô là con người của sứ vụ, vì chính Người đã được Chúa Cha sai đến trần gian để thi hành sứ vụ cứu độ nhân loại; chính Người là vị thừa sai của Chúa Cha, là người rao giảng Tin mừng đầu tiên và vĩ đại nhất, là gương mẫu tuyệt hảo của tất cả các nhà truyền giáo mọi nơi và mọi thời. Ba chiều kích mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ của Đức Kitô được thể hiện và tiếp nối nơi Giáo hội là Thân mình của Người.
Chính trong bản chất của Giáo hội là mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ, mà hình ảnh của linh mục được bộc lộ rõ nét như là con người của mầu nhiệm, con người của hiệp thông và con người của sứ vụ, như được Tông huấn Pastores Dabo Vobis nhấn mạnh nhằm phác họa hình ảnh của linh mục là hiện thân của Đức Kitô để thi hành sứ vụ của Người trong Giáo hội như sau: “Một cách đặc biệt, linh mục thừa tác là tôi tớ của Đức Kitô hiện diện trong Giáo hội như là mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ. Do sự kiện linh mục thông phần vào việc xức dầu và vào sứ vụ của Đức Kitô, linh mục có khả năng nối dài kinh nguyện, lời nói, hy lễ và hoạt động cứu độ của Ngài trong Giáo Hội”.[40]
Từ trên nền tảng đó, việc thường huấn dành cho các linh mục phải được xem xét và tổ chức thế nào để đời sống và sứ vụ của linh mục có thể diễn tả và thể hiện 3 chiều kích ấy.
2.2. Linh mục trong Giáo hội mầu nhiệm
2.2.1. Giáo hội mầu nhiệm
Giáo hội mầu nhiệm là ý niệm chìa khóa của Công đồng Vaticanô II để từ đó Công đồng xây dựng một thần học về Giáo hội. Chương đầu tiên của Hiến chế tín lý về Giáo hội Lumen Gentium lấy tựa đề là “Mầu nhiệm Giáo hội”. Trong chương này Công đồng trình bày Giáo hội như là bí tích của Đức Kitô (x. số 1), được bắt đầu từ ý định cứu rỗi phổ quát của Chúa Cha (số 2), được hình thành nhờ sứ mạng và công cuộc của Chúa Con (x. số 3), được thánh hóa bởi Chúa Thánh Thần (x. số 4), để trở thành mầm mống của Nước Thiên Chúa trên trần gian (x. số 5). Giáo hội được trình bày qua các hình ảnh như chuồng chiên hay đàn chiên của Thiên Chúa, thửa ruộng hay cánh đồng của Thiên Chúa, tòa nhà Thiên Chúa, thành Giêrusalem trên trời và mẹ của chúng ta, hiền thê của Đức Kitô (x. số 6). Giáo hội còn được gọi là Thân thể Đức Kitô với Đức Kitô là Đầu (x. số 7), Giáo hội là thực tại vừa hữu hình vừa thiêng liêng (x. số 8).
Theo Tông huấn Pastores Dabo Vobis, “Giáo hội là ‘mầu nhiệm’,tức là công trình của Thiên Chúa, hoa quả của Thần Khí Đức Kitô, dấu chỉ hữu hiệu của ân sủng, sự hiện diện của Ba Ngôi Thiên Chúa trong cộng đoàn Kitô giáo”.[41]
Đã có một thời người ta thích quan niệm Giáo hội như một xã hội hoàn hảo theo kiểu nhân loại, quá chú trọng đến những yếu tố hữu hình. Hình ảnh Giáo hội như thế đồng nghĩa với việc đồng hóa Giáo hội với một công trình thuần túy nhân loại, do con người tạo ra. Thật ra Giáo hội mang tính mầu nhiệm vì là công trình của Thiên Chúa Ba Ngôi và phản ánh mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chính Thiên Chúa đã chủ động chuẩn bị từ thời Cựu Ước qua việc kêu gọi ông Abraham và biến ông trở thành tổ phụ một dân tộc là dân Israel, tiền thân của Giáo hội. Giáo hội được hình thành từ những tín hữu chịu phép rửa nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi.
Giáo hội mầu nhiệm vì là hoa quả của Thần Khí Đức Kitô. Trong chính ngày Phục sinh, Đức Kitô phục sinh đã thổi hơi trên các Tông đồ và nói : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Thế rồi trong ngày lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần đã được ban xuống tràn đầy trên các Tông đồ và mọi người hiện diện: ngay lập tức mọi người trở thành mạnh mẽ và đầy khôn ngoan, mạnh dạn công bố Tin mừng Phục sinh cho tất cả mọi người đang tụ họp. Đặc biệt bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô đã có sức đánh động nhiều người, khiến cho hơn ba ngàn người sám hối, xin chịu phép rửa tội và tạo thành cộng đoàn Giáo hội tiên khởi tại Giêrusalem. Đó là hoa quả của Thần Khí Đức Kitô. Sau đó cũng chính Thánh Thần Đức Kitô thúc đẩy các Tông đồ lên đường rao giảng Tin mừng cho các dân ngoại, khiến cho Giáo hội mang tính công giáo và hiện diện khắp nơi, nói được mọi thứ tiếng để công bố Tin mừng Phục sinh cho mọi dân tộc và làm cho Giáo hội chẳng những ngày càng mạnh mẽ, mà còn ngày càng bành trướng khắp nơi.
Giáo hội mầu nhiệm vì là dấu chỉ hữu hình của ân sủng và do đó Giáo hội chính là bí tích của ơn cứu độ. Thiên Chúa có thể ban ơn cứu độ cho nhân loại theo cách nào Người muốn, nhưng Người đã chọn cách thành lập một cộng đoàn nhân loại hữu hình, có cơ cấu tổ chức, lễ nghi phụng tự và lề luật. Thiên Chúa không muốn cứu độ con người các riêng lẻ, nhưng qui tụ họ thành một dân tộc,[42] một cộng đoàn,[43] đó là cách làm việc của Thiên Chúa từ trước đến nay. Ân sủng của Thiên Chúa thường được ban cho con người qua các trung gian. Các trung gian ấy có thể là con người, sự vật, nghi thức hay một tổ chức. Trong ý nghĩa đó, Giáo hội vừa là một tổ chức hữu hình, nhưng đồng thời chính Thiên Chúa đang hoạt động trong Giáo hội và qua Giáo hội để ban ân sủng cho con người. Người ta đến với Giáo hội và gặp được Thiên Chúa cũng như nhận được những ân huệ siêu nhiên của Người. Giáo hội hiện diện nơi trần gian này như một dấu chỉ hữu hình về sự hoạt động của Thiên Chúa và chính qua Giáo hội mà các ân sủng được ban phát cho con người, cụ thể qua lời rao giảng của Giáo hội và qua các bí tích, bởi vì chính trong bí tích mà Giáo hội hành động nhân danh Chúa, hay chính Chúa hành động qua Giáo hội, để ban ơn cứu độ cho con người.
Cuối cùng, Giáo hội là mầu nhiệm vì chính trong Giáo hội có sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi. Giáo hội được coi như bí tích của Thiên Chúa Ba Ngôi, vì chính qua Giáo hội mọi người nhận biết Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong Giáo hội có ân sủng của Đức Kitô, có tình yêu của Chúa Cha và có sự hiệp thông của Chúa Thánh Thần. Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm của sự duy nhất và hiệp nhất trong tình yêu. Đây cũng là điều Chúa Ba Ngôi đang thực hiện trong Giáo hội. Trong khi các tôn giáo độc thần khác như Do-thái giáo hay Hồi giáo chỉ tuyên xưng một Thiên Chúa duy nhất, thì Kitô giáo tuyên xưng một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi riêng biệt. Đó là một mầu nhiệm căn bản, vượt trên tất cả mọi mầu nhiệm.
Ý thức rằng Giáo hội là mầu nhiệm sẽ không làm giảm thiểu ý nghĩa của trách nhiệm mục tử, trái lại sẽ giúp cho vị mục tử “xác tín rằng sự tăng trưởng của Giáo hội là thành quả nhưng không, do Thần Khí, và việc phục vụ Giáo hội, nhờ ân sủng Thiên Chúa, được giao phó cho trách nhiệm và tự do của con người, là công việc của người đầy tớ vô dụng trong Tin mừng” (x. Lc 17,10).[44]
2.2.2. Linh mục trong Giáo hội mầu nhiệm
Trong Giáo hội xét như là “mầu nhiệm”, việc thường huấn là một phương thế hữu hiệu giúp các linh mục bảo tồn và phát huy trong đức tin ý thức về sự thật toàn vẹn và đáng kinh ngạc của con người mình: linh mục là tôi tớ của Đức Kitô và là người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Chính sự thật toàn vẹn ấy làm nên căn tính của linh mục. Thánh Phaolô yêu cầu các Kitô hữu phải nhìn ngài theo căn tính ấy: “Vậy chớ gì thiên hạ coi chúng tôi như những đầy tớ của Đức Kitô, những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa” (1Cr 4,1) và chính ngài là người trước tiên sống với ý thức về ân huệ cao cả đã lãnh nhận từ nơi Chúa. Theo gương Thánh Phaolô, các linh mục cũng phải luôn tâm niệm và xác tín về sự thật ấy. Tuy nhiên, để có thể thực hiện sự thật ấy trong cuộc sống của mình, các linh mục cần phải có đôi mắt của đức tin, tức là đôi mắt có khả năng nhìn thấy mầu nhiệm của Đức Kitô trong thừa tác vụ của mình, cũng như mầu nhiệm của Giáo hội là thân mình Đức Kitô.[45]
Trong chiều hướng ấy, có thể nói rằng việc đào tạo trường kỳ nhắm làm cho linh mục luôn nhận ra mình đúng như trong sự thật với đôi mắt của Đức Kitô. Việc đào tạo ấy cũng giúp linh mục luôn canh tân đức tin trong khi thi hành tác vụ linh mục, luôn nhớ rằng mình là tôi tớ của Đức Kitô, tức là khi thi hành tác vụ, linh mục không bao giờ hành động nhân danh mình, nhưng luôn nhân danh Đức Kitô, đồng thời cũng phải sống như thế nào để các tín hữu nhìn thấy Đức Kitô và những hoạt động của Người xuyên qua con người và những hoạt động của mình. Là người quản lý các mầu nhiệm thánh, điều Thiên Chúa đòi hỏi nơi các linh mục là lòng trung thành (x. 1Cr 4,2), tức là giữ được căn tính hay sự thật toàn vẹn về linh mục. Cùng với lòng trung thành, linh mục phải canh phòng sự thật ấy bằng một tình yêu tri ân và tươi vui, vì nhận biết rằng tất cả những gì mình có đều do Chúa ban, từ đó linh mục sẽ phục vụ dân Chúa bằng một tình yêu khiêm hạ như người tôi tớ của Đức Kitô và như bí tích tình yêu của Thiên Chúa, sẵn sàng trở thành khí cụ sống động, qua đó Thiên Chúa ban phát ân sủng cho loài người.[46]
Nhờ việc đào tạo trường kỳ, các linh mục càng xác tín hơn về chiều kích mầu nhiệm trong sự thật về con người và tác vụ của mình. Linh mục là người của mầu nhiệm, bởi vì linh mục được đặt làm tư tế, tức làm trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại. Làm trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại, linh mục vừa là con người của sự thánh thiêng, vừa là con người phàm hèn yếu đuối như bao người khác. Là con người của sự thánh thiêng, vì linh mục là người của Thiên Chúa, được Thiên Chúa tuyển chọn từ trong lòng mẹ như Người đã nói với ngôn sứ Giêrêmia, là người thay mặt Thiên Chúa và được trang bị bởi quyền năng của Thiên Chúa để công bố Lời Chúa và làm cho Thiên Chúa hiện diện và hoạt động qua các bí tích.
Tuy nhiên, dù được đặt lên địa vị cao cả như thế, linh mục cũng vẫn là con người phàm hèn yếu đuối, như tác giả thư gửi tín hữu Do-thái đã nói. Khiêm tốn nhìn nhận mình chỉ là con số không nếu không được Thiên Chúa kêu gọi và trao ban thánh chức, trong nghi thức truyền chức linh mục, các tiến chức nằm phủ phục sát đất trước mặt Chúa trong một vị trí không còn vị trí nào thấp hơn, để rồi một khi đã được đấng thay mặt Chúa kêu mời chỗi dậy và trao ban sứ vụ, các tân linh mục sẽ không vênh vang tự phụ vì tài năng hay đức độ của mình để đòi hỏi, yêu sách, nhưng sẽ hết mình phục vụ trong khiêm tốn như người đầy tớ vô dụng.
2.3. Linh mục trong Giáo hội hiệp thông
2.3.1. Giáo hội hiệp thông
Chiều kích thứ hai của Giáo hội là hiệp thông. Hiệp thông cũng là một ý tưởng căn bản nồng cốt nhất trong Giáo hội học của Công đồng Vaticanô II. Đến lượt mình, sự hiệp thông của Giáo hội lại có hai chiều kích: trước hết là chiều đứng và tiếp theo là chiều ngang.[47]
Hiệp thông theo chiều đứng là hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi. Nếu không có chiều đứng này, thì Giáo hội chỉ là một tập thể trần gian như những tập thể khác. Nhờ kết hợp với Chúa Giêsu như thân mình kết hợp với đầu, Giáo hội hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi. Hiệp thông theo chiều đứng là công trình của Chúa Thánh Thần: nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta kết hợp với Chúa Giêsu, và trong Chúa Giêsu, chúng ta kết hợp với Chúa Cha.
Tiếp đến là hiệp thông theo chiều ngang, cũng là công trình của Chúa Thánh Thần: nhờ kết hợp với Chúa Giêsu trong Chúa Thánh Thần, chúng ta kết hợp với nhau làm thành Giáo hội, Thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô. Nhờ phép rửa, chúng ta được thông dự vào mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh của Đức Kitô và được Chúa Thánh Thần tháp nhập vào Thân mình mầu nhiệm của Người. Công đồng Vaticanô II đã dạy: “Con Thiên Chúa, kết hợp với bản tính nhân loại, đánh bại sự chết bằng chính cái chết và sự Phục sinh của mình, đã cứu chuộc và biến đổi con người thành một thụ tạo mới (x. Gl 6,15; 2Cr 5,17). Thật vậy, khi thông ban Chúa Thánh Thần, Người đã quy tụ các anh chị em của mình từ muôn dân tộc để thiết lập cách mầu nhiệm Thân mình của Người”.[48]
Sự hiệp thông của Giáo hội vừa vô hình, vừa hữu hình.[49] Khía cạnh vô hình hệ tại sự hiệp thông của mỗi người với Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, trong Chúa Thánh Thần, sự hiệp thông với những người cùng được chia sẻ bản tính thần linh của Thiên Chúa. Sự hiệp thông hữu hình là sự hiệp thông trong giáo lý các Tông đồ, trong đời sống Bí tích và trong phẩm trật Hội thánh, rõ ràng nhất là trong cộng đồng các tín hữu, tức là những môn đệ Đức Kitô được tổ chức theo phẩm trật. Giữa sự hiệp thông vô hình và sự hiệp thông hữu hình có một tương quan mật thiết: sự hiệp thông hữu hình diễn đạt và chuyển tải sự hiệp thông vô hình.[50]
Như vậy, Giáo hội là hiệp thông vì Giáo hội là cộng đoàn các Kitô hữu hiệp thông với Chúa Cha nhờ Đức Giêsu Kitô trong Chúa Thánh Thần và hiệp thông với nhau trong tình bác ái. Đồng thời Giáo hội cũng là khí cụ Thiên Chúa dùng để qui tụ nhân loại thành một gia đình duy nhất.
2.3.2. Linh mục trong Giáo hội hiệp thông
Đến lượt mình, linh mục cũng là người của sự hiệp thông. Trước hết là sự hiệp thông theo chiều đứng với Thiên Chúa: “Theo những gì đã được nói về căn tính của mình, linh mục liên kết trước hết với Chúa Cha, nguồn gốc tối cao của mọi quyền bính; liên kết với Chúa Con, Đấng mà linh mục thông phần sứ vụ cứu độ; liên kết với Chúa Thánh Thần, Đấng ban cho linh mục sức mạnh để sống và thi hành đức ái mục tử, là ‘nguyên lý nội tại, nhân đức thúc đẩy và hướng dẫn đời sống thiêng liêng của linh mục’,[51] đức ái mục tử này làm nên tư cách linh mục”.[52]
Từ sự hiệp thông căn bản này với Thiên Chúa, linh mục thực hiện sự hiệp thông theo chiều ngang với mọi thành phần Dân Chúa.[53] Thực vậy, do bí tích Truyền chức thánh, linh mục hiệp thông với giám mục và linh mục đoàn, từ đó xây dựng sự hiệp thông giữa cộng đoàn Giáo hội, xây dựng Giáo hội thành gia đình hiệp nhất trong tình yêu và tình huynh đệ, trong sự đối thoại chân thành, trong sự lắng nghe và tôn trọng mọi ý kiến khác biệt. Vì vậy, chiều kích hiệp thông cũng phải có trong chương trình đào tạo linh mục, kể cả trong chương trình thường huấn.
Về vấn đề này, Tông huấn đã dạy: “Trong Giáo hội xét như là ‘hiệp thông’, việc đào tạo trường kỳ giúp cho linh mục phát huy ý thức để nhận ra rằng thừa tác vụ của mình xét cho cùng được phối trí để qui tụ gia đình của Thiên Chúa trong tình huynh đệ lấy đức ái làm sức sống, và để dẫn dắt gia đình ấy đến với Chúa Cha nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần”.[54] Đây là câu mở đầu số 74 của Tông huấn, và trong suốt số này Đức Gioan Phaolô II tiếp tục khai triển ý tưởng này một cách rộng rãi bằng những trình bày được phân tích như sau:
2.3.2.1. Hiệp thông với Giáo hội phổ quát
Trước hết, nhờ việc thường huấn, các linh mục phát triển ý thức về sự hiệp thông sâu xa giữa mình với Dân Thiên Chúa, tức Giáo hội phổ quát. “Được Chúa Cha sai đi qua trung gian Chúa Kitô, linh mục thuộc về Giáo hội phổ quát ‘cách trực tiếp’, có sứ mạng loan báo Tin mừng cho đến tận cùng trái đất”.[55] Với tư cách là mục tử và lãnh đạo, các linh mục thường mặc nhiên nhận cho mình vị trí đứng đầu, đứng trước cộng đoàn tín hữu, mà quên mất rằng mình cũng là anh em giữa các anh em. Linh mục không chỉ ‘’đứng trước” mà còn “đứng trong” Giáo hội. Linh mục phải nhớ rằng mình cũng chỉ là con chiên trong đàn chiên của Đức Kitô, vì Người là Mục tử tối cao và duy nhất. Như tất cả mọi Kitô hữu, nhờ bí tích Rửa tội, linh mục cũng là chi thể của cùng một Thân thể duy nhất của Đức Kitô và được mặc lấy phẩm giá và tự do của những người làm con Thiên Chúa trong Con Duy Nhất (x. Ep 4,16).
Nhờ phát triển ý thức về sự hiệp thông ấy, linh mục phát huy tinh thần đồng trách nhiệm với các anh em linh mục trong cùng một sứ vụ cứu độ duy nhất, nhờ đó các linh mục mau mắn và vui lòng cộng tác với nhau, sẵn sàng chia sẻ những khả năng và đặc sủng mà Chúa Thánh Thần ban cho để phục vụ Dân Chúa và xây dựng Giáo hội. Hơn nữa, chính nhờ sống trong sự hiệp thông huynh đệ mà các linh mục mới có thể chu toàn nhiệm vụ mục tử của mình, bằng cách giúp đỡ và san sẻ trách nhiệm với nhau, cũng như sẵn sàng đón nhận sự cộng tác của mọi thành phần Dân Chúa. Đức Phaolô VI đã viết, “chính vì muốn trở nên những mục tử, những người cha và những người làm thầy mà chúng ta cần phải hoà mình trở nên anh em của mọi người. Bầu khí của đối thoại phải là tình bạn. Hơn nữa, phải là sự phục vụ”.[56]
2.3.2.2. Hiệp thông với Giáo hội địa phương
Tiếp đến, việc thường huấn cũng giúp các linh mục ý thức mình là thành phần của Giáo hội địa phương, tức là giáo phận. Giáo phận là nơi hàng giáo sĩ nhập tịch ngay từ lúc chịu chức phó tế. Theo giáo luật, bất kỳ phó tế và linh mục triều nào cũng phải nhập tịch vào một giáo phận, trở thành giáo sĩ của giáo phận ấy.[57] Đối với các linh mục, việc nhập tịch này khiến các linh mục trở thành một linh mục đoàn của giáo phận, với một mối dây vừa pháp lý, vừa thiêng liêng và mục vụ.
Với tư cách là thành viên của linh mục đoàn giáo phận dưới quyền Đức Giám mục, các linh mục luôn gắn bó với giáo phận bằng một tình yêu đặc biệt và phải làm sao để tình yêu ấy ngày càng phát triển hơn. Giáo phận không những chỉ là một địa bàn mục vụ mà còn phải được xem như một gia đình, nơi các linh mục phải thực thi đức ái mục vụ. Để thể hiện tình yêu đối với giáo phận và thực thi đức ái qua việc mục vụ, các linh mục phải tìm hiểu lịch sử, hoàn cảnh hiện tại của giáo phận, khám phá những gì là phong phú, cũng như những khó khăn, đồng thời học hỏi kinh nghiệm của anh em linh mục đang làm việc và của các thế hệ linh mục đi trước, để làm cho giáo phận ngày càng phát triển hơn về mọi mặt. Một mặt các linh mục nối dài hoạt động mục vụ của các vị tiền nhiệm, mặt khác để lại những kinh nghiệm cho các thế hệ tiếp theo, đồng thời cũng tìm kiếm những ơn gọi mới để có người kế nhiệm trong chức linh mục.
2.3.2.3. Hiệp thông với linh mục đoàn
“Giữa lòng mối dây hiệp thông Giáo hội, linh mục được mời gọi ngày càng tăng trưởng, nhờ việc đào tạo trường kỳ, trong tư cách thành viên của linh mục đoàn hiệp nhất với giám mục. Linh mục đoàn thật sự là một mầu nhiệm; linh mục đoàn quả là một thực thể siêu nhiên bởi vì bén rễ trong bí tích Truyền chức thánh. Nguồn mạch và cội rễ của linh mục đoàn, ‘nơi’ sinh ra và tăng trưởng của cộng đoàn, là ở đó. Quả thực, ‘nhờ bí tích Truyền chức thánh, các linh mục được gắn liền với Đức Kitô, Linh mục duy nhất, bằng một mối dây cá vị và bất khả phân. Việc phong chức được ban hành cho các linh mục như là những cá nhân, nhưng các linh mục được hội nhập vào trong mối hiệp thông của toàn thể linh mục đoàn cùng với giám mục.[58] […] Sự hiệp nhất giữa các linh mục với giám mục và giữa các linh mục với nhau không phải được thêm như thể từ bên ngoài vào trong bản chất tách biệt của công việc phục vụ, sự hiệp nhất ấy biểu lộ yếu tính của công việc phục vụ, yếu tính ấy chính là sứ vụ của Đức Kitô Linh Mục đối với đoàn dân được quy tụ trong sự hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi”.[59]
Có thể nói linh mục đoàn là một gia đình thật sự, và giữa các linh mục có một mối tình huynh đệ không phải do huyết thống, nhưng do ân sủng của bí tích Truyền chức thánh. Ân sủng ấy xâm chiếm và nâng cao những mối tương quan nhân loại và thiêng liêng giữa các linh mục với nhau; ân sủng ấy biểu lộ cách cụ thể trong những hình thức tương trợ tinh thần và vật chất đa dạng. “Tình huynh đệ mật thiết do bí tích giữa các linh mục là biểu hiện đầu tiên của đức ái và là môi trường đầu tiên nơi đức ái có thể lớn lên”.[60] Cũng chính trong khung cảnh tình huynh đệ linh mục mà việc đào tạo thường xuyên được tổ chức: “Khung cảnh đầu tiên trong đó thường huấn được phát triển là tình huynh đệ linh mục. Trong mỗi giáo phận, thường huấn nên được tổ chức bởi một linh mục hay một nhóm linh mục đã được đào tạo cho công việc này và được chính thức giao cho trách nhiệm tổ chức thường huấn, đồng thời họ phải lưu ý đến những độ tuổi khác nhau và những hoàn cảnh đặc biệt của mỗi anh em linh mục”.[61]
Tình huynh đệ linh mục không loại trừ một ai, tuy nhiên theo tinh thần Tin mừng, các linh mục nên dành những ưu tiên cho người nào đang cần giúp đỡ và cần khích lệ nhất. Tình huynh đệ ấy “dành một sự quan tâm đặc biệt đối với các linh mục trẻ, duy trì một thái độ đối thoại chân tình và huynh đệ với những linh mục thuộc lứa tuổi trung bình hoặc cao niên, cũng như đối với những linh mục nào vì lý do này hay lý do khác đang phải đương đầu với những khó khăn. Còn về những linh mục đã rời bỏ thừa tác vụ hay không còn trung thành với thừa tác vụ, tình huynh đệ ấy cũng không bỏ rơi họ nhưng ngược lại dõi theo họ với một sự chú tâm còn huynh đệ hơn”.[62]
Linh mục đoàn của giáo phận cũng bao gồm các linh mục dòng đang phục vụ trong giáo phận: “Các linh mục thành viên của một dòng tu hoặc một tu đoàn đời sống tông đồ hoạt động trong giáo phận và thi hành một phận vụ bất kỳ cho giáo phận, thì ngay cả nếu họ có bề trên hợp pháp đi nữa, họ vẫn đương nhiên, hoặc với một danh nghĩa khác, thuộc về linh mục đoàn của giáo phận đó, nơi mà họ có quyền bầu cử cũng như ứng cử để làm thành Hội đồng linh mục”.[63] Sự hiện diện cùng với các đặc sủng riêng biệt và đa dạng của họ làm cho linh mục đoàn của giáo phận càng trở nên phong phú. Trong tinh thần hiệp thông, việc thường huấn giúp linh mục triều và dòng nhận ra và quý trọng những điều tích cực của nhau để cùng nhau cộng tác trong chương trình mục vụ của giáo phận, trong khi vẫn luôn tôn trọng tính chất đặc thù, như linh đạo và đặc sủng của mỗi hội dòng. Trong chiều hướng ngược lại, các linh mục dòng cũng phải tôn trọng truyền thống của giáo phận, để điều phối những sáng kiến của hội dòng mình với chương trình mục vụ chung của toàn giáo phận, nhất là khi các linh mục dòng được giao nhiệm vụ điều hành các giáo xứ trong giáo phận. Chính vì vậy, cho dù các linh mục dòng có những cuộc thường huấn riêng của hội dòng mình, vẫn phải tham dự các cuộc thường huấn do giáo phận mà mình đang phục vụ tổ chức.
Cũng chính trong bối cảnh của Giáo hội hiệp thông và của linh mục đoàn mà người ta có thể vững vàng hơn cả để đương đầu với vấn đề cô đơn của linh mục. Trong chiều hướng ấy, “sự tham gia tích cực vào linh mục đoàn giáo phận, những tiếp xúc thường đều với giám mục và với các linh mục khác, sự cộng tác hỗ tương, đời sống chung hoặc huynh đệ giữa các linh mục với nhau, cũng như tình bạn và những mối quan hệ chân tình với những người giáo dân tích cực dấn thân trong các giáo xứ, đều là những phương thế rất hữu ích để thắng vượt những hậu quả của nỗi cô đơn mà đôi khi linh mục phải cảm nếm”.[64]
2.3.2.4. Hiệp thông với các tu sĩ và giáo dân
Hơn nữa, với ý thức về một Giáo hội là hiệp thông, các linh mục không những cộng tác với giám mục, với anh em linh mục triều và dòng, mà còn với các tu sĩ và giáo dân. “Linh mục quan tâm cách riêng đến các anh chị em dấn thân trong một cuộc đời thánh hiến đặc biệt cho Thiên Chúa dưới mọi hình thức, bằng cách biểu lộ sự quí mến chân thành và một tinh thần cộng tác tông đồ hiệu quả, trong sự tôn trọng và cổ võ các đặc sủng của họ”.[65] Một sự hợp tác giữa các linh mục với các tu sĩ giả thiết phải có sự hiểu biết và quý chuộng các đặc sủng khác nhau mà Chúa Thánh Thần ban xuông cho các hội dòng. Hơn nữa, sự hợp tác ấy đòi buộc phải có sự tin cậy lẫn nhau, biết cảm thông và lắng nghe.
Ngoài ra, “là con người của sự hiệp thông, linh mục không thể diễn tả tình yêu của mình đối với Chúa và Giáo hội mà không thể hiện nó ra bằng một tình yêu có thực và vô điều kiện đối với cộng đoàn tín hữu, đối tượng của việc chăm sóc mục vụ”.[66] Trong chiều hướng ấy, các linh mục phải biết hợp tác với giáo dân, như lời Công đồng Vaticanô II đã dạy, các linh mục phải “sẵn sàng lắng nghe ý kiến của giáo dân, đồng thời, trong tình huynh đệ, chú trọng đến những khát vọng của giáo dân, giúp đỡ cũng như nhận sự giúp đỡ của giáo dân về kinh nghiệm và về uy thế trong nhiều lãnh vực khác nhau của sinh hoạt nhân loại, hầu có thể cùng với họ đọc ra những dấu chỉ của thời đại”.[67] Linh mục cần phải biết hướng dẫn và nâng đỡ giáo dân trong ơn gọi của họ để họ có thể dấn thân xây dựng thế giới theo đường hướng của Tin mừng.[68]
2.3.2.5. Hiệp thông với các Giáo hội địa phương khác
Cuối cùng, việc thường huấn cũng giúp các linh mục phát huy ý thức về sự hiệp thông giữa các Giáo hội địa phương, cụ thể là giữa các giáo phận trong cùng một đất nước hay giữa Giáo hội tại nước này với các Giáo hội tại các nước khác. Sự hiệp thông này phát xuất từ chiều kích hiệp thông của Giáo hội phổ quát của Đức Kitô. Một ý thức như thế về sự hiệp thông sẽ cổ võ “sự trao đổi các ân huệ”, khởi đầu là ân huệ linh mục. Những nơi có nhiều ơn gọi linh mục nên gửi các linh mục đến giúp đỡ những nơi thiếu linh mục. Đặc biệt là những nơi không được hưởng một sự tự do tôn giáo hay những Giáo hội nghèo. Điều này đòi hỏi một sự dấn thân quảng đại về phía các linh mục.
2.4. Linh mục trong Giáo hội sứ vụ
2.4.1. Giáo hội sứ vụ
Giáo hội là sứ vụ do bản chất của Giáo hội là truyền giáo, vì Giáo hội đã được Đức Kitô thiết lập và sai đi loan báo Tin mừng Nước Trời và phục vụ tha nhân. Giáo hội có bổn phận ra đi khắp tứ phương thiên hạ để biến mọi người trở thành môn đệ Đức Kitô. Giáo hội không chỉ là sự nối dài mầu nhiệm Đức Kitô nhập thể, mà còn là sự nối dài mầu nhiệm Đức Kitô được xức dầu, tức được thánh hiến và sai đi.
Tuy nhiên, sứ vụ của Giáo hội không chỉ đơn thuần là loan báo Tin mừng cho những người chưa nhận biết Chúa, nhưng còn đòi hỏi cả việc Phúc Âm hóa chính bản thân người tín hữu, cũng như môi trường xã hội, văn hóa họ đang sống.
Quả thế, việc loan báo Tin mừng nhằm mục đích dẫn đưa con người đến đức tin. Nhưng đức tin có lẽ sẽ không thể quan niệm được và không có ý nghĩa gì nếu không có một sự biến đổi con người về phương diện luân lý, một sự thay đổi trong hướng đi của cuộc sống. Ở đây chúng ta đang chạm đến quan niệm nền tảng về việc Phúc âm hóa, về sự hoán cải.[69] Đối với Giáo hội, Phúc âm hóa chính là mang Tin mừng vào trong mọi môi trường của nhân loại và qua sự đụng chạm ấy Tin mừng biến đổi các môi trường ấy từ bên trong. Do đó, mục đích của Phúc âm hóa là đổi mới nội tâm, và khi loan báo Tin mừng, Giáo hội cũng tìm cách hoán cải lương tâm con người, cả cá nhân lẫn tập thể,[70] biến đổi “các tiêu chuẩn phán đoán, các giá trị quyết định, các điểm quan tâm, các dòng tư duy, các nguồn cảm hứng và các kiểu sống của nhân loại, vốn tương phản với Lời Chúa và chương trình cứu độ”.[71]
Đức Gioan Phaolô II, trong Thông điệp Redemptoris Missio, cũng đã đi theo đường hướng giáo huấn của Giáo hội trước đó khi trình bày cách rõ ràng mục đích này của việc loan báo Tin mừng: đó là sự hoán cải hoặc canh tân đức tin và đời sống Kitô hữu.[72]
Chính vì thế, việc loan báo Tin mừng phải đi đôi với việc làm chứng, và việc làm chứng chuẩn bị và đồng hành với lời rao giảng, như văn kiện đã khẳng định: việc loan báo Tin mứng “cho thấy tính chất đích thực của nó và đồng thời triển khai mọi sức mạnh truyền giáo của nó khi nó được thực hiện bởi việc trao ban không những lời được công bố, mà còn lời được sống”.[73] Lý do là vì “nhờ đời sống luân lý, đức tin trở nên ‘lời tuyên xưng’, không những trước mặt Thiên Chúa, mà còn trước mặt người đời: đức tin trở thành chứng từ”.[74]
Quả thế, như chúng ta thấy trong Ad Gentes, Evangelii Nuntiandi và Redemptoris Missio, chứng từ của một cuộc sống mới làm nảy sinh những câu hỏi nơi mọi người và mở ra một con đường ngày càng rộng cho hoạt động của Chúa Thánh Thần, và như thế nó đặt ra những tiền đề khiến cho mầu nhiệm Đức Kitô có thể chiếu sáng rạng ngời.[75]
Rao giảng Tin mừng bằng lời nói đi đôi với chứng từ cuộc sống, đó là việc Phúc âm hóa mà Giáo hội vẫn làm trong suốt 20 thế kỷ qua. Tuy nhiên, ngày nay do hoàn cảnh đặc biệt của thế giới, cần phải đổi mới việc rao giảng ấy bằng một phương cách mới. “Việc rao giảng là mới, hiểu theo nghĩa ‘chúng ta tìm kiếm, ngoài công việc rao giảng Tin mừng thường xuyên lâu nay chưa hề bị gián đoạn, một lối rao giảng mới mẻ khiến cho thế giới lắng nghe chúng ta, khi họ không còn hứng thú với lối rao giảng cổ điển”.[76] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II gọi lối rao giảng mới ấy là Tân Phúc âm hóa:
“Công cuộc Phúc âm hóa được kể là thách đố mãnh liệt nhất và hào hứng nhất mà Giáo hội được kêu mời đảm nhận ngay từ buổi đầu. […]. Thế nhưng thời đại chúng ta đang sống, ít ra nơi nhiều dân tộc, đúng hơn phải nói là thời đại của một thách đố dữ dội đối với công cuộc ‘tân Phúc âm hóa’, nghĩa là đối với việc loan báo Tin mừng luôn luôn mới và lúc nào cũng mang sự mới mẻ, một cuộc Phúc âm hóa phải ‘mới trong nhiệt tình, trong các phương pháp, trong cách diễn tả’ ”.[77]
2.4.2. Linh mục trong Giáo hội sứ vụ
Trong Giáo hội, linh mục là con người của sứ vụ, vì linh mục tiếp nối công cuộc cứu độ của Đức Kitô, Đấng đã được xức dầu Thánh Thần và được Chúa Cha sai đi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Chính vì vậy, việc thường huấn dành cho linh mục trong một Giáo hội sứ vụ cũng phải nhắm đến khía cạnh quan trọng này. Mở đầu số 75, Tông huấn Pastores Dabo Vobis khẳng định: “Điểm nhắm của việc đào tạo trường kỳ là phát huy nơi linh mục ý thức về sự tham gia của mình vào sứ vụ cứu độ của Giáo Hội”. Sau đó Tông huấn đã dành trọn số 75 để khai triển khẳng định này:
2.4.2.1. Khơi thắm lại cảm thức sứ vụ
“Trong Giáo hội sứ vụ, việc đào tạo trường kỳ dành cho linh mục chẳng những là một điều kiện cần thiết, nhưng còn là một phương thể tất yếu để thường xuyên khơi thắm lại cảm thức về sứ vụ và để bảo đảm cho sứ vụ được thực hiện một cách trung thành và quảng đại”.[78]
Trước hết là “thường xuyên khơi thắm lại cảm thức về sứ vụ”. Đức Gioan Phaolô II muốn nhắc lại những gì ngài đã đề cập đến ở phần trước, trong mục “Đào tạo mục vụ”. Trong mục này ngài cho thấy các chủng sinh trước khi làm linh mục phải được đào tạo để yêu mến và sống chiều khích truyền giáo của Giáo hội. Họ phải mở lòng ra để có thể ứng trực đối với mọi đường lối có thể thực hiện được cho việc loan báo Tin mừng trong thời đại hôm nay. Họ phải được chuẩn bị để có khả năng đáp ứng với việc được Chúa Thánh Thần và giám mục sai đi loan báo Tin Mừng.[79] Giờ đây, sau khi đã thụ phong linh mục, nhờ việc thường huấn, các linh mục có cơ hội làm mới lại cảm thức thừa sai và nhiệt tình tông đồ này. “Thường huấn nhằm nâng đỡ linh mục để luôn trung thành với thừa tác vụ linh mục theo một hành trình hoán cải liên tục, ngõ hầu lầm sống lại ơn ban đã lãnh nhận vào lúc truyền chức”.[80]
Hơn nữa, như chúng ta đã nói trên đây, sứ vụ của Giáo hội hiện nay phải mặc lấy hình thức của một cuộc tân Phúc âm hóa, không phải chỉ là loan báo Tin mừng bằng lời, mà còn bằng hành động, tức là bằng đời sống chứng nhân, cùng với nhiệt tình mới, phương pháp mới và cách diễn đạt mới. Trước hết là nhiệt tình mới: “Cần làm sống lại trong chúng ta đà tiến thuở xưa bằng cách để cho tâm hồn chúng ta tràn ngập tinh thần hăng say rao giảng của các Tông đồ tiếp sau ngày lễ Ngũ Tuần”.[81] Tiếp đến là các phương pháp mới: ngoài đối thoai liên tôn, hội nhập văn hóa và thăng tiến con người, “linh mục phải biết dùng mọi phương pháp truyền thông mà khoa học và kỹ thuật hiện đại mang lại”.[82] Cuối cùng là cách diễn đạt mới: “Linh mục cần biết cách nói với mọi người ‘dù không bao giờ che giấu những đòi hỏi căn bản nhất của sứ điệp Tin mừng, nhưng luôn có sự nhạy cảm và ngôn ngữ tinh tế trước những đòi hỏi của từng người, theo gương Thánh Phaolô đã nói: ‘Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người’ (1Cr 9,22)”.[83]
Do đó, với việc thường huấn, các linh mục có dịp làm mới lại nhiệt tình thừa sai, biết áp dụng những phương pháp mới và sử dụng các diễn tả mới vào việc rao giảng Tin mừng, nhờ đó sứ vụ truyền giáo của Giáo hội sẽ gặt hái được nhiều kết quả chắc chắn và phong phú.
2.4.2.2. Dấn thân trước những thách đố mới
Nhờ việc thường huấn, các linh mục nhận ra tất cả tính nghiêm trọng và sự đòi buộc của việc dấn thân cho sứ vụ loan báo Tin mừng. Qua các thời kỳ, Giáo hội dấn thân thực hiện ý muốn của Thiên Chúa và sứ vụ được Đức Kitô giao phó. Nhưng sứ vụ Phúc âm hóa của Giáo hội ngày nay đang chạm trán với một thách đố rất lớn, đó là thách đố của não trạng hiện đại cũng như hậu hiện đại, trong đó sự vô tín được chấp nhận một cách rộng rãi như một thứ văn hóa phổ quát: “Điều mới mẻ và bi đát trong thời đại chúng ta đó là sự thiếu vắng niềm tin, nhất là dưới hình thức dửng dưng tôn giáo, lại trở thành một thứ văn hóa”.[84] Một khoảng cách bi thảm ngày càng rộng đã được đào lên giữa đức tin Kitô giáo và não trạng của xã hội hiện đại là nơi đang diễn ra cách mạnh mẽ một phong trào tiệm tiến nhằm tục hóa và giải trừ Kitô giáo, làm thay đổi triệt để tất cả các giá trị của quá khứ và do đó buộc phải xét lại cách sâu xa những phương pháp truyền thống của việc Phúc âm hóa.
Ngoài ra, tính nghiêm trọng và sự đòi buộc dấn thân thực hiện việc Phúc âm hóa không những chỉ phát xuất từ hoàn cảnh thế giới hiện nay, mà còn phát xuất từ nỗi bức xúc trong những khao khát của con người ngày nay, vì họ đang sống trong một thế giới đầy gian dối và bạo lực, bị nô lệ hóa bởi những thế lực xấu xa và độc ác.
Vì vậy, đứng trước tính cấp bách của nhu cầu truyền giáo hôm nay, các linh mục phải nói như Thánh Phaolô ngày xưa: “Đối với tôi, rao giảng Tin mừng không phải là một tước hiệu để tôi lấy làm vinh dự; đó là một sự khẩn thiết được ký thác cho tôi. Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng !” (1Cr 9,16).
2.4.2.3. Khẳng định sự trung thành và quảng đại
Tiếp đến, việc thường huấn cũng bảo đảm cho sứ vụ được thực hiện một cách trung thành và quảng đại. Nơi các linh mục, sự trung thành gắn liền với lòng quảng đại. Không những trung thành với Chúa, với giáo huấn Tin mừng, mà còn trung thành với nhiệm vụ được Thiên Chúa và bề trên giao phó. Trung thành và quảng đại là những đức tính nhân bản rất cần thiết cho những người thi hành sứ vụ truyền giáo không những bằng lời mà còn bằng cuộc sống, nhờ đó lời nói của họ trở nên đáng tin và có sức thu hút. Có nhiều lý do khiến các linh mục không còn trung thành với ơn gọi và thiên chức của mình. Ngoài những yếu đuối của phận người, các linh mục còn bị cám dỗ không còn nhiệt tình trong đời sống tông đồ, khi phải đối đầu với biết bao khó khăn thử thách trong cuộc sống và trong khi thi hành sứ vụ. Tuy nhiên, dẫu cho thân xác mệt mỏi vì lao tâm lao lực, dẫu cho hoàn cảnh khó khăn nghiệt ngã thế nào đi nữa, thì các linh mục vẫn phải trung thành với sứ vụ.
Trong thư thứ 2 gửi tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô đã để lại cho các linh mục mọi thời một gương mẫu tuyệt vời và đồng thời cũng là một nguồn khích lệ lớn lao đối với việc trung thành chu toàn nhiệm vụ loan báo Tin mừng bất chấp mọi khó khăn thử thách: “Phần chúng tôi, chúng tôi chẳng làm gì gây cớ cho ai vấp phạm, để không người nào có thể đàm tiếu về công việc phục vụ của chúng tôi. Trái lại, trong mọi sự, chúng tôi luôn chứng tỏ mình là những thừa tác viên của Thiên Chúa: gian nan, khốn quẫn, lo âu, đòn vọt, tù tội, loạn ly, nhọc nhằn, vất vả, mất ăn mất ngủ, chúng tôi đều rất mực kiên trì chịu đựng. Chúng tôi còn chứng tỏ điều đó bằng cách ăn ở trong sạch, khôn khéo, nhẫn nhục, nhân hậu, bằng một tinh thần thánh thiện, một tình thương không giả dối, bằng lời chân lý, bằng sức mạnh của Thiên Chúa. Chúng tôi lấy sự công chính làm vũ khí tấn công và tự vệ, khi vinh cũng như khi nhục, lúc được tiếng tốt cũng như khi mang tiếng xấu. Bị coi là bịp bợm, nhưng kỳ thực chúng tôi chân thành; bị coi là vô danh tiểu tốt, nhưng kỳ thực chúng tôi được mọi người biết đến; bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực chúng tôi vẫn sống; coi như bị trừng phạt, nhưng kỳ thực không bị giết chết; coi như phải ưu phiền, nhưng kỳ thực chúng tôi luôn vui vẻ; coi như nghèo túng, nhưng kỳ thực chúng tôi làm cho bao người trở nên giàu có; coi như không có gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có tất cả” (2Cr 6,3-10).
KẾT LUẬN
Linh mục không phải là một nghề, nhưng là một ơn gọi, một sứ vụ nhận lãnh từ nơi Thiên Chúa và được thực hiện xuyên suốt cuộc đời, kể cả khi vì tuổi già sức yếu hay vì bệnh tật khiến một linh mục không còn khả năng đảm nhận một nhiệm vụ cụ thể trong Giáo hội. Gương mẫu tuyệt vời và là người thầy tối cao của linh mục là Đức Giêsu Kitô. Việc đào tạo linh mục trong Giáo hội nhắm mục đích là xây dựng con người linh mục theo hình ảnh Đức Giêsu Mục tử nhân lành, bởi vì sứ mạng mà các linh mục nhận lãnh và thi hành là chăm sóc đàn chiên của Đức Kitô theo ý của Người.
Tuy nhiên, sứ vụ linh mục được thực hiện trong Giáo hội. Vì vậy chính Giáo hội chủ động đưa ra chương trình đào tạo linh mục theo những tiêu chuẩn của mình. Việc đào tạo ấy luôn được Giáo hội đối chiếu với môi trường hiện tại, để các linh mục có thể hướng dẫn các tín hữu sống đức tin của mình trước những thách đố của thời đại. Vì vậy Giáo hội luôn cập nhật việc đào tạo linh mục với hoàn cảnh đương thời, trong khi vẫn trung thành với bản chất của Giáo hội và bản chất của thừa tác vụ linh mục. Cũng chính trong bối cảnh ấy mà chương trình thường huấn dành cho các linh mục được tổ chức.
Để cho việc thường huấn không trở nên nhàm chán và kém hiệu quả, Đức Gioan Phaolô II đã mời gọi các linh mục nhận ra và đánh giá ý nghĩa sâu xa của việc thường huấn bằng cách đặt việc thường huấn trong tương quan với Giáo hội. Nếu Giáo hội có ba chiều kích là mầu nhiệm, hiệp thông, sứ vụ, thì việc đào tạo linh mục nói chung và chương trình thường huấn nói riêng cũng có bốn chiều kích: nhân bản, thiêng liêng, trí thức và mục vụ. Cả bốn chiều kích của thường huấn đều góp phần giúp cho các linh mục thực hiện được tác vụ của mình trong việc xây dựng Giáo hội với cả ba chiều kích mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ.
Nguồn: gpquinhon.net
________
Năm 1992, trước sự thiếu hụt trầm trọng các linh mục, và trước cơn khủng hoảng về ơn gọi linh mục, ngài ban hành Tông huấn Pastores Dabo Vobis về việc đào tạo linh mục trong hoàn cảnh hiện nay. Mặc dầu sau Công đồng Vaticanô II, đã có nhiều hội nghị khoáng đại (vào các năm 1967, 1971,1974) bàn đến việc canh tân các chủng viện, đến giáo thuyết về chức linh mục, nhưng lần này Tông huấn nghĩ rằng: “phải gợi lại cách tổng hợp những gì có liên hệ đến nền tảng của bản chất và sứ vụ linh mục, bản chất và sứ vụ mà Giáo hội hằng tin nhận suốt dọc lịch sử nhiều niên kỷ của mình, và Công đồng Vaticanô II đã trình bày lại cho người thời nay” (số 11), nghĩa là phải tìm ra căn tính hay bản chất của linh mục dựa vào bản chất của Giáo hội như mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ.
Năm 1996, ngài lại ban hành Tông huấn Vita Consecrata về đời fhánh hiến. Tông huấn đã tham chiếu mô hình về Giáo hội như mầu nhiệm, hiệp thông, sứ vụ, để trình bày đời thánh hiến trong ba chiều kích: thánh hiến, hiệp thông và sứ vụ (xem số 13).